Trả lời kiến nghị của doanh nghiệp tại Diễn đàn VBF cuối kỳ năm 2020
PHỤ LỤC
TRẢ LỜI KIẾN
NGHỊ CỦA DOANH NGHIỆP TẠI DIỄN ĐÀN DOANH NGHIỆP VIỆT NAM (VBF) CUỐI KỲ NĂM 2020
(Kèm theo công
văn số 7959/BTC-CST ngày 20/7/2021 của Bộ Tài chính)
1. Kiến nghị số 38
Công
văn 7183/TCHQ-TXNK ngày 02/11/2017 của Tổng cục Hải quan hướng dẫn “các sản
phẩm bổ sung/thực phẩm bảo vệ sức khỏe/thực phẩm chức năng dạng lỏng…thuộc nhóm
2202”, nhưng không biết rằng nhóm Thực Phẩm Chức Năng bao gồm cả Thực Phẩm Dinh
Dưỡng y tế (quy định bởi Thông tư 43/2014/TT-BYT của Bộ Y tế). Thực phẩm y tế
đã được phân loại vào nhóm 1901 và 2106 theo biểu thuế hiện hành. Hướng dẫn này
của Hải quan mâu thuẫn với Biểu thuế hiện hành dẫn đến nhiều khó khăn cho nhà
nhập khẩu cũng như cơ quan Hải quan địa phương trong việc thực hiện.
EuroCham
đã nêu vấn đề này trong hội thảo về Sách Trắng 2020 ngày 30 tháng 6 năm 2020.
Đại diện của Tổng Cục Hải Quan, Bộ Tài chính đã hứa sẽ trả lời nhưng đến nay
vẫn chưa có phản hồi hoặc hướng dẫn chính thức nên Hiệp hội doanh nghiệp châu
Âu một lần nữa khuyến nghị Tổng Cục Hải quan làm rõ, hoặc nếu có thể, bỏ cụm từ
“thực phẩm chức năng” trong Công văn 7183/TCHQ-TXNK. Nếu có vướng mắc trong việc
phân loại các sản phẩm chỉ kê khai chung chung là thực phẩm chức năng, Hiệp hội
doanh nghiệp châu Âu đã đề nghị Tổng Cục Hải quan nên phối hợp, lấy ý kiến Bộ Y
tế và các Bộ, ngành, đơn vị liên quan như Tổng Cục Thuế, Bộ Tài chính để xác
định chính xác phân loại của các sản phẩm này nhằm áp dụng thuế quan chính xác
và phù hợp cho các sản phẩm.
Nội dung trả lời:
-
Căn cứ Nghị định số 08/2015/NĐ-CP ngày 21 tháng 01 năm 2015 của Chính phủ quy định
chi tiết và biện pháp thi hành Luật Hải quan về
thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát, kiểm soát hải quan;
- Căn cứ Thông tư số 14/2015/TT-BTC
ngày 30/01/2015 của Bộ Tài chính hướng dẫn về phân loại hàng hóa, phân tích để
phân loại hàng hóa, phân tích để kiểm
tra chất lượng, kiểm tra an toàn thực phẩm; Thông tư số 65/2017/TT-BTC ngày
27/6/2017 của Bộ Tài chính về việc ban hành Danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu Việt Nam; Thông tư số 09/2019/TT-BTC ngày 15/02/2019 của Bộ Tài chính sửa
đổi, bổ sung một số nội dung tại các phụ lục của Thông tư số 65/2017/TT-BTC ngày
27/6/2017 của Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành danh mục hàng hóa xuất khẩu, nhập
khẩu Việt Nam:
Thực phẩm dinh dưỡng y học hay còn gọi là sản phẩm
dinh dưỡng y tế là thực phẩm dinh dưỡng dùng cho mục đích y tế đặc biệt, tiêu
chí như sau:
(1) là thực phẩm dùng bằng đường miệng hoặc đường
ống xông (ống xông dạ dày)
(2) nhãn gốc sản phẩm hoặc nhãn trong hồ sơ công
bố sản phẩm có ghi các cụm từ sau “thực phẩm dinh dưỡng y học” và “sử dụng cho
người bệnh với sự giám sát của nhân viên y tế”
(3) tiêu chí “sử dụng dưới sự giám sát của nhân
viên y tế” được xác định thông qua giấy xác nhận của Bộ Y tế (Cục An toàn thực
phẩm) cho sản phẩm là thực
phẩm dinh dưỡng y học hoặc giấy tiếp
nhận đăng ký bản công bố sản phẩm cho thực phẩm dinh dưỡng y học của cơ quan quản
lý nhà nước có thẩm quyền.
Các mặt hàng đáp ứng các
tiêu chí trên sẽ được xem xét phân loại tại nhóm 19.01 hoặc 21.06.
Việc phân loại đối với mặt
hàng Thực phẩm dinh dưỡng y học đã được Tổng cục Hải quan hướng dẫn tại công
văn số 4701/TCHQ-TXNK ngày 14/7/2020 để thực hiện thống nhất tại các Cục Hải
quan tỉnh, thành phố.
2. Kiến nghị số 39
Căn cứ Khoản 1, Điều 2, Nghị
định 11/2016/NĐ-CP ngày 03/02/2016 của Chính phủ (“Nghị định 11”) quy định về đối
tượng áp dụng của Nghị định 11 như sau:
“1. Lao động là công dân nước
ngoài vào làm việc tại Việt Nam (sau đây viết tắt là người lao động nước ngoài)
theo các hình thức sau đây:
a) Thực hiện hợp đồng lao động;
b) Di chuyển trong nội bộ
doanh nghiệp;
[…]”
Như vậy, pháp luật đã công
nhận người lao động (“NLĐ”) nước ngoài làm việc theo hợp đồng lao động (“HĐLĐ”)
và NLĐ nước ngoài làm việc theo dạng di chuyển trong nội bộ doanh nghiệp là hai
nhóm đối tượng khác nhau.
Trên thực tế, thư bổ nhiệm
(hoặc các tài liệu tương đương khác) đã và đang được một số cơ quan thuế địa
phương chấp nhận là một trong các tài liệu chứng minh chi phí tiền lương, tiền
công được trừ, thể hiện qua một số công văn như: Công văn 6990/CT-TTHT ngày
08/07/2019 và Công văn 1565/CT-TTHT ngày 28/02/2018 của Cục Thuế TP Hồ Chí
Minh.
Đề nghị Bộ Tài chính nghiên
cứu, xem xét và có hướng dẫn bổ sung thư bổ nhiệm đối với trường hợp người lao
động nước ngoài làm việc xác định thời hạn dưới 01 năm là một tài liệu chứng
minh chi phí tiền lương, tiền công được trừ để nhất quán với pháp luật lao động
và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Nội dung trả lời:
Về vấn đề này, tại công văn
số 5476 /BTC-CST ngày
7/5/2020 gửi Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính đã có ý kiến: Căn cứ các quy định của pháp luật về thuế TNDN (tại điểm i Khoản 2 Điều 9 Luật thuế TNDN và điểm m Khoản
2 Điều 9 Nghị định số 218/2013/NĐ-CP ngày 26/12/2013 của Chính phủ) thì việc sử dụng thư bổ nhiệm là tài liệu chứng minh để tính vào chi phí tiền
lương, tiền công trả cho người lao động nước ngoài là chưa phù hợp.
Theo đó, đề nghị doanh nghiệp
thực hiện theo đúng quy định của pháp luật về Thuế TNDN hiện hành.
3. Kiến
nghị số 40
Theo Nghị định 36/2016/NĐ-CP
(Nghị định 36) và Nghị định 169/2018/NĐ-CP (Nghị định 169), việc phân loại
trang thiết bị y tế được thực hiện bởi cơ sở đã công bố đủ điều kiện phân loại
trang thiết bị y tế, còn Bộ Y tế không thực hiện phân loại trang thiết bị y tế.
Mặc dù có quy định trong Nghị
định 36 và Nghị định 169, các cơ quan thuế và hải quan vẫn yêu cầu doanh nghiệp
cung cấp xác nhận của Bộ Y tế cho trang thiết bị y tế nhập khẩu. Cụ thể, doanh
nghiệp phải cung cấp xác nhận của Bộ Y tế để được áp dụng thuế suất thuế GTGT
5% cho thiết bị chuyên dùng, vật tư hóa chất xét nghiệm, diệt khuẩn dùng trong
y tế không được đề cập tại Thông tư 26/2015/TT-BTC và Thông tư 83/2014/TT-BTC.
Do đó, nhiều mặt hàng trang thiết bị y tế nhập khẩu mà theo Nghị định 36 và Nghị
định 169 được phân loại là trang thiết bị y tế hiện nay không được hưởng thuế
suất thuế GTGT 5%.
Hiệp hội doanh nghiệp châu
Âu được biết Bộ Tài chính đang soạn dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư
83/2014/TT-BTC và các văn bản hướng dẫn. Tuy nhiên, Hiệp hội muốn lưu ý rằng
Thông tư 26/2015/TT-BTC cũng là một trở ngại lớn cần được quan tâm. Vấn đề này
kéo dài trong thời gian dài đã ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp nhập khẩu
trang thiết bị y tế.
Hiệp hội kiến nghị Bộ Tài
chính cần ban hành văn bản hướng dẫn thực hiện việc áp dụng thuế suất thuế GTGT
cho TTBYT, theo Nghị định 36/2016/NĐ-CP và Nghị định 169/2018/NĐ-CP; đưa ra lộ
trình cụ thể cho việc sửa đổi các văn bản hướng dẫn như Thông tư 26/2015/TT-BTC
và Thông tư 83/2014/TT-BTC trong thời gian sớm nhất. Hiệp hội cũng mong Bộ Tài
chính công bố dự thảo các Thông tư sửa đổi để doanh nghiệp đóng góp ý kiến trước
khi ban hành theo đúng quy trình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Việt
Nam.
Nội
dung trả lời:
Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số
43/2021/TT-BTC ngày 11/6/2021 sửa đổi, bổ sung khoản 11 Điều 10 Thông tư số
219/2013/TT-BTC ngày 31/12/2013 và Thông tư số 26/2015/TT-BTC ngày 27/2/2015
liên quan đến nội dung thuế GTGT đối với thiết bị, dụng cụ y tế.
4. Kiến
nghị số 41
Điểm 6 của Công văn 7203/TCHQ-TXNK
cung cấp một số lý do bối cảnh:
Theo như hướng dẫn của Thông
tư số 39/2018/TT-BTC ngày 20 tháng 04 năm 2018, số lượng (1) và số lượng (2) là
các trường thông tin mà người khai hải quan phải khai báo. Tuy nhiên, số liệu của
Cục Thông tin cho thấy chỉ có 2% doanh nghiệp khai chỉ tiêu số lượng (2) trên tờ
khai hải quan. Ngoài ra, khi kiểm tra tờ khai hải quan (trường hợp tờ khai luồng
vàng, luồng đỏ), công chức hải quan thường không kiểm tra phần khai số lượng
(2) trên tờ khai hải quan nên cơ quan hải quan không yêu cầu người khai hải
quan phải bổ sung khi chỉ tiêu số lượng (2) để trống, không khai báo.
Do vậy, việc thống kê, kiểm
tra, đánh giá và xây dựng chính sách quan lý (cụ thể là chính sách giá) đối với
hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu chưa chính xác, đang gặp vướng mắc. Theo công văn
trên, trong tương lai hàng hóa phải khai báo đầy đủ tên hàng, thành phần, tính
chất, cấu tạo, hàm lượng và phải có thêm khối lượng của từng mặt hàng và đơn vị
đo khối lượng để kê khai vào cột số lượng (2) trên tờ khai để tránh nhầm lẫn
khi làm thủ tục nhập hàng.
Nhập khẩu phụ tùng ô tô là
những bộ phận phức tạp liên quan đến các vật liệu khác nhau và không có thông
tin chi tiết đến mức này.
Kể từ ngày 11 tháng 11 năm
2020, Công văn 7203/TCHQ-TNNK đột ngột được áp dụng là một thách thức đối với
các nhà sản xuất và nhập linh kiện ô tô phải đối mặt với yêu cầu đó mà không có
sự phối hợp và thông báo trước để chuẩn bị. Do công nghệ phức tạp liên quan đến
một số bộ phận, một số thông tin được yêu cầu sẽ không bao giờ có sẵn.
Việc này đang tạo ra sự chậm
trễ trong việc thông quan và chi phí cho các công ty và khách hàng. Các văn bản
của UNECE đối với hàng hóa từ EU đã được chấp nhận trong khuôn khổ EVFTA, việc
thi hành đột ngột văn bản mới như Công văn 7203/TCHQ-TNNK là một rào cản không
cần thiết trong thương mại đối với các nhà nhập khẩu EU tại Việt Nam.
Nhằm giải quyết những rào cản
lớn đối với việc bảo trì, bảo hành và thu hồi kỹ thuật các phụ tùng ô tô theo
yêu cầu từ các nhà nhập khẩu và lắp rắp, Hiệp hội doanh nghiệp châu Âu kính đề
nghị Tổng cục Hải quan Việt Nam có thể đưa ra thời gian thực hiện linh hoạt là
ba năm để cho các nhà sản xuất thời gian cần thiết nhằm xác định và lưu trữ các
thông tin đó cũng như đơn giản hóa dữ liệu được yêu cầu.
Nội
dung trả lời:
Việc khai báo đơn vị tính
trên tờ khai hải quan đã được quy định rõ tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông
tư số 39/2018/TT-BTC ngày 20/4/2018 (hiệu lực từ ngày 05/6/2018). Theo đó, đề
nghị doanh nghiệp thực hiện theo quy định tại Thông tư số 39/2018/TT-BTC của Bộ
Tài chính.
Đối với Công văn 7203/TCHQ-TXNK
ngày 11/11/2020 của Tổng cục Hải quan là công văn hướng dẫn nội bộ của cơ quan
Hải quan để chỉ đạo các Cục Hải quan thực hiện đúng quy định tại Thông tư số 39/2018/TT-BTC.
Theo thống kê kể từ khi ban hành công văn 7203/TCHQ-TXNK thì việc khai báo số
lượng trên tờ khai hải quan quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư số
39/2018/TT-BTC đã được thực hiện đầy đủ.
5. Kiến
nghị số 42 và kiến nghị số 56
* Kiến nghị
số 42:
Tại Công văn 17862/BTC-TCT
ngày 09/12/2014, Bộ Tài chính đã hướng dẫn nguyên tắc không thu thuế nhà thầu đối
với khoản hoàn chi phí tiền lương nếu (i) khoản thanh toán của công ty con tại
Việt Nam cho công ty mẹ tại nước ngoài chỉ đơn thuần là việc bồi hoàn lại toàn
bộ tiền lương và các chi phí thực phát sinh mà công ty nước ngoài đã trả hộ
công ty Việt Nam cho các chuyên gia biệt phái sang làm việc tại Việt Nam và
(ii) các chuyên gia biệt phái đã kê khai và nộp đầy đủ thuế thu nhập cá nhân
(“TNCN”) cho thu nhập toàn cầu tại Việt Nam. Tuy nhiên, gần đây, một số cơ quan
thuế địa phương yêu cầu doanh nghiệp nộp thuế nhà thầu đối với khoản bồi hoàn
chi phí tiền lương của nhân viên phải cử từ công ty mẹ theo hình thức di chuyển
nội bộ, với lý do là những nhân viên phái cử này vẫn thuộc sự quản lý của công
ty mẹ.
Hiệp hội doanh nghiệp châu
Âu khuyến nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét và có hướng
dẫn về việc không thu thuế nhà thầu đối với khoản bồi hoàn chi phí tiền lương của
nhân viên phái cử từ công ty mẹ theo hình thức di chuyển nội bộ để tránh việc
các cơ quan thuế địa phương áp dụng các quan điểm truy thu không nhất quán.
* Kiến nghị số 56:
Thực tế, nhiều cơ quan thuế đang dựa
vào các từ ngữ thường có trong Thư bổ nhiệm như là: nhân viên phái cử vẫn là
nhân viên của công ty mẹ/ được duy trì những phúc lợi theo hợp đồng lao động với
công ty mẹ trong giai đoạn biệt phái, để cho rằng cá nhân không phải là người
làm công của công ty con tại Việt Nam trong thời gian được phái cử sang làm việc
tại công ty ở Việt Nam và kết luận đây là hoạt động cung cấp dịch vụ, nên chịu thuế
nhà thầu.
Xét toàn diện, về mặt bản chất, đây là
khoản Công ty mẹ chi hộ chi phí tiền lương tiền công của bên Việt Nam, không phải
phí dịch vụ của công ty mẹ, do đó, việc áp đặt thuế nhà thầu là không đúng với
bản chất giao dịch.
Chúng tôi cũng xin lưu ý rằng
trước đây tại Công văn số 17862/BTC-TCT ngày 09/12/2014, Bộ Tài chính đã từng
có hướng dẫn nguyên tắc không thu thuế nhà thầu đối với khoản hoàn chi phí tiền
lương nếu (i) khoản thanh toán của công ty con tại Việt Nam cho công ty mẹ tại
nước ngoài chỉ đơn thuần là việc bồi hoàn lại toàn bộ tiền lương và các chi phí
thực phát sinh mà công ty nước ngoài đã trả hộ công ty Việt Nam cho các chuyên
gia biệt phái sang làm việc tại Việt Nam và (ii) các chuyên gia biệt phái đã kê
khai và nộp đầy đủ thuế thu nhập cá nhân (“TNCN”) cho thu nhập toàn cầu tại Việt
Nam.
Đề nghị Bộ Tài chính nghiên
cứu, xem xét và có hướng dẫn về việc không thu thuế nhà thầu đối với khoản bồi
hoàn chi phí tiền lương của nhân viên phái cử từ công ty mẹ theo hình thức di
chuyển nội bộ để tránh việc các cơ quan thuế địa phương áp dụng các quan điểm
truy thu không nhất quán.
Nội
dung trả lời:
Tại
Khoản 1 Điều 1 Thông tư số
103/2014/TT-BTC ngày 6/8/2014 của Bộ Tài chính hướng dẫn thực hiện nghĩa vụ thuế
áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nước ngoài kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu
nhập tại Việt Nam quy định:
“Điều 1. Đối tượng áp dụng
Hướng dẫn tại Thông tư này áp dụng đối
với các đối tượng sau (trừ trường hợp nêu tại Điều 2 Chương I):
1. Tổ chức nước
ngoài kinh doanh có cơ sở thường trú tại Việt Nam hoặc không có cơ sở thường
trú tại Việt Nam; cá nhân nước ngoài kinh doanh là đối tượng cư trú tại Việt
Nam hoặc không là đối tượng cư trú tại Việt Nam (sau đây gọi chung là Nhà thầu
nước ngoài, Nhà thầu phụ nước ngoài) kinh doanh tại Việt Nam hoặc có thu nhập
phát sinh tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng, thoả thuận, hoặc cam kết giữa Nhà
thầu nước ngoài với tổ chức, cá nhân Việt Nam hoặc giữa Nhà thầu nước ngoài với
Nhà thầu phụ nước ngoài để thực hiện một phần công việc của Hợp đồng nhà thầu”.
Trên
cơ sở nguyên tắc đã được Bộ Tài chính hướng dẫn tại công văn số 17862/BTC-TCT
ngày 09/12/2014, cụ thể nếu đáp ứng các điều kiện sau thì khoản thu hộ-chi hộ
tiền lương của Công ty mẹ ở nước ngoài không thuộc đối tượng áp dụng của Thông tư số 103/2014/TT-BTC
nêu trên:
-
Khoản thanh toán cho công ty con tại Việt Nam cho công ty mẹ tại nước ngoài chỉ
đơn thuần là việc bồi hoàn lại toàn bộ tiền lương và các chi phí thực phát sinh
mà công ty nước ngoài đã trả hộ công ty Việt Nam cho các chuyên gia biệt phái
sang làm việc tại Việt Nam.
-
Các chuyên gia biệt phái đã kê khai và nộp đầy đủ thuế TNCN cho thu nhập toàn cầu
tại Việt Nam.
Đề
nghị doanh nghiệp liên hệ với cơ quan thuế quản lý trực tiếp kèm theo hồ sơ cụ
thể để được hướng dẫn thực hiện theo đúng quy định của pháp luật.
6. Kiến
nghị số 43
Theo quy định, trường hợp
trong năm dương lịch, cá nhân có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày nhưng tính
trong 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam là từ 183 ngày
trở lên thì kỳ tính thuế đầu tiên được xác định là 12 tháng liên tục kể từ ngày
đầu tiên có mặt tại Việt Nam. Từ năm thứ hai, kỳ tính thuế căn cứ theo năm
dương lịch.
Quy định về việc quyết toán
thuế cho giai đoạn 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên đến Việt Nam đã bộc lộ
những bất cập trên thực tế như sau:
* Việc xác định “ngày đầu
tiên có mặt tại Việt Nam” của cá nhân có thể không nhất quán trong nhiều trường
hợp, ví dụ:
- Trước khi bắt đầu thời
gian bổ nhiệm chính thức tại Việt Nam, nếu cá nhân đã đến Việt Nam cho mục đích
cá nhân, không liên quan đến công việc thì những ngày này có bị coi là ngày đầu
tiên có mặt tại Việt Nam hay không.
- Nếu cá nhân đã hoàn thành
nhiệm kỳ công tác tại Việt Nam sau đó quay lại Việt Nam công tác trong cùng năm
hoặc trong các năm sau thì ngày đầu tiên có mặt tại Việt Nam được xác định như
thế nào.
* Khi xác định số thuế TNCN
còn phải nộp của năm tính thuế thứ hai, theo quy định, số thuế được trừ của
giai đoạn trùng giữa hai năm tính thuế là số thuế phân bổ trung bình của năm
tính thuế thứ nhất, thay vì số thuế thực tế đã nộp cho giai đoạn trùng. Do vậy,
trong trường hợp cá nhân có biến động thu nhập giữa các tháng lớn, có khả năng
số thuế phân bổ trung bình của năm tính thuế thứ nhất sẽ khác với số thuế thực
tế đã nộp cho giai đoạn trùng, dẫn đến việc phát sinh số thuế nộp thừa hoặc nộp
thiếu của năm tính thuế thứ hai, kể cả khi thuế TNCN hàng tháng đã được tính
toán và nộp đủ.
* Trong trường hợp cá nhân là cá nhân
cư trú trong giai đoạn 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên đến Việt Nam nhưng
là cá nhân không cư trú của năm tính thuế thứ 2, việc xác định nghĩa vụ thuế của
năm tính thuế thứ 2 chưa được quy định rõ ràng, dẫn đến nhiều bất cập. Ví dụ:
cá nhân lần đầu đến Việt Nam vào 10/05/2018 và lần cuối rời Việt Nam ngày
20/06/2019. Cá nhân có mặt tại Việt Nam trên 183 ngày trong giai đoạn từ
10/05/2018 đến 09/05/2019 và có mặt tại Việt Nam dưới 183 ngày trong giai đoạn
từ 01/01/2019 đến 20/06/2019. Theo đó, cá nhân là cá nhân cư trú trong năm tính
thuế từ 10/05/2018 đến 09/05/2019 và là cá nhân không cư trú trong năm tính thuế
từ 01/01/2019 đến 20/06/2019. Như vậy, cuối cùng, cá nhân sẽ được coi là cá
nhân cư trú hay không cư trú cho giai đoạn từ 01/01/2019 đến 09/05/2019 và việc
kê khai thuế cho giai đoạn này sẽ như thế nào?
Phần mềm hỗ trợ kê khai (HTKK) đang chỉ
hỗ trợ xác định năm tính thuế theo chẵn tháng (tức từ ngày đầu tháng đến ngày
cuối tháng) trong khi năm tính thuế theo 12 tháng liên tục có thể là lẻ tháng.
Do đó, thời hạn kê khai thuế theo năm tính thuế đúng và thời hạn kê khai thuế
được xác định trên phần mềm quản lý thuế có thể khác nhau, dẫn đến khó khăn và
mất thời gian cho cơ quan thuế và người nộp thuế trong việc đối chiếu và tính
toán lãi phạt chậm nộp tiền thuế (nếu có). Trên thế giới và trong khu vực, có
nhiều quốc gia chỉ áp dụng năm tính thuế theo năm dương lịch, không áp dụng năm
tính thuế 12 tháng liên tục, ví dụ: Lào, Myanmar, Malaysia, Singapore,
Philippines, Thái Lan, Hàn Quốc). Do đó, cá nhân là công dân của các nước này sẽ
gặp khó khăn trong việc xin cấp xác nhận cá nhân cư trú thuế và khấu trừ thuế
đã nộp tại nước ngoài do năm tính thuế không tương đồng.
Hiệp hội doanh nghiệp châu
Âu kính đề nghị Bộ Tài chính nghiên cứu, xem xét bỏ việc xác định kỳ tính thuế
12 tháng liên tục để đơn giản hoá thủ tục hành chính thuế, tránh việc phát sinh
các cách hiểu thiếu nhất quán về quy định thuế cũng như để phù hợp với thông lệ
quốc tế.
Nội
dung trả lời:
- Về việc Luật thuế TNCN tại
Việt Nam quy định 12 tháng liên tục kể từ ngày đầu tiên đến Việt Nam:
Khi xây dựng Luật thuế TNCN
, Bộ Tài chính đã cân nhắc việc lựa chọn giữa việc tính thuế TNCN theo năm
dương lịch ngay từ năm đầu tiên , hay tính 12 tháng liên tục kể từ năm đầu
tiên. Xuất phát từ việc có những người nước ngoài làm việc tại Việt Nam trong một
thời gian rất ngắn, thời gian ngắn đó có thể đan xen giữa 2 năm. Do đó, nếu
không tính 12 tháng liên tục trong thời gian đầu tiên này thì người nộp thuế
trong trường hợp ở tại Việt Nam trong khoảng thời gian giữa 2 năm sẽ tách ra
làm 2 năm dương lịch để quyết toán. Vì vậy, để cắt giảm thủ tục hành chính và
đơn giản hoá việc xác định thu nhập chịu thuế nên Bộ Tài chính đã xây dựng quy
định về kỳ tính thuế 12 tháng liên tục. Đối với trường hợp cá nhân ở Việt Nam
hơn 12 tháng liên tục thì sẽ phát sinh số thuế bị tính trùng một số tháng khi
quyết toán thuế của năm sau. Tuy nhiên, về vấn đề này đã có hướng dẫn để xác định
số thuế trùng để trừ khi quyết toán thuế năm sau theo nguyên tắc thuế bình quân
tháng của năm tính thuế. Do đó, giữa 2 phương án thì phương án tính theo 12
tháng liên tục ở năm đầu tiên đảm bảo đơn giản cho người nộp thuế.
- Về vướng mắc xác định
“ngày đầu tiên ở Việt Nam” như thế nào:
“Ngày đầu tiên” ở đây không
phải ngày đầu tiên trong đời của cá nhân đó mà là “ngày đầu tiên” trong một giai
đoạn làm việc, một hợp đồng làm việc. Một cá nhân có thể đến Việt Nam làm nhiều
lần, theo nhiều hợp đồng khác nhau, theo nhiều chương trình làm việc khác nhau.
“Ngày đầu tiên” ở đây là ngày đầu tiên trong chương trình làm việc đó.
- Về việc xác định nghĩa vụ
thuế của năm tính thuế thứ hai trong trường hợp cá nhân làm việc trong khoảng
thời gian giữa 2 năm. Về nguyên tắc khi một cá nhân đến Việt Nam ngày đầu tiên
trong hợp đồng làm việc, thì ngày đầu tiên đó căn cứ theo hợp đồng làm việc. Nếu
hợp đồng có thời hạn làm việc trên 183 ngày thì xác định luôn cá nhân đó là cá
nhân cư trú. Đến năm tính thuế thứ hai, kể cả trường hợp làm việc chỉ 3 tháng
thì việc kê khai, nộp thuế vẫn phải tính liên tục theo cá nhân cư trú. Nếu ở
năm tính thuế thứ hai, cá nhân về nước ngay sau khi kết thúc hợp đồng và không
quay lại Việt Nam nữa thì sẽ xác định lại tình trạng cư trú của cá nhân đó. Trường
hợp cá nhân hiện diện tại Việt Nam dưới 183 ngày thì sẽ xác định lại tình trạng
cư trú và được xác định là đối tượng không cư trú. Tuy nhiên, việc xác định lại
thân phận cư trú này sẽ phải xác định tại thời điểm cuối năm dương lịch đó, còn
tại thời điểm cá nhân về nước thì không thể xác định được cư trú hay không cư
trú trong năm tính thuế dương lịch. Đồng thời , do theo hợp đồng ban đầu đã kéo
dài trên 183 ngày nên cá nhân đó vẫn tiếp tục nộp thuế theo cá nhân cư trú.
- Về phản ánh ứng dụng khai
thuế đang tính theo tháng, khó khăn trong việc tính phạt nộp chậm của cơ quan
thuế.
Trong việc tính phạt nộp chậm
của cơ quan thuế, thời hạn sẽ tính theo tháng , trường hợp nếu phát sinh thuế
TNCN từ ngày đầu, ngày 15 hay ngày 30 tháng đó thì thời hạn khai thuế vẫn là thời
hạn khai thuế của tháng đó. Khi tính xử phạt thì tính theo thời hạn khai thuế của
tháng chứ không tính theo thời hạn phát sinh thu nhập.
- Về phản ánh trên thế giới
và trong khu vực, có nhiều quốc gia chỉ áp dụng năm tính thuế theo năm dương lịch,
ví dụ: Lào, Myanmar, Malaysia, Singapore, Philippines, Thái Lan, Hàn Quốc . Do
đó, cá nhân là công dân của các nước này sẽ gặp khó khăn trong việc xin cấp xác
nhận cá nhân cư trú thuế và khấu trừ thuế đã nộp tại nước ngoài do năm tính thuế
không tương đồng.
Quy định về kỳ tính thuế 12
tháng liên tục nhằm mục đích cắt giảm thủ tục hành chính, trường hợp VBF cung cấp
thêm kinh nghiệm các nước mà quy định như trên với một lý do hợp lý và để có lợi
hơn cho người nộp thuế, Bộ Tài chính sẽ nghiên cứu trong quá trình xây dựng,
ban hành văn bản pháp luật cho phù hợp.
Với các quốc gia đã ký hiệp
định tránh đánh thuế 2 lần với Việt Nam thì ưu tiên thực hiện theo Hiệp định nếu
không làm tăng nghĩa vụ thuế của cá nhân so với nội luật. Đối với việc khấu trừ
thuế đã nộp tại một quốc gia thì đã có quy định rõ ràng trong Hiệp định về việc
quốc gia nào có trách nhiệm phải khấu trừ thuế đã nộp để tránh việc đánh thuế
hai lần.
7. Kiến
nghị số 44
Theo quy định hiện hành, có
thể hiểu rằng, người nước ngoài có nghĩa vụ kê khai thuế TNCN tại Việt Nam trên
phần thu nhập được cho là thu nhập phát sinh tại Việt Nam nhưng nhận được từ nước
ngoài trong trường hợp cá nhân nước ngoài sang Việt Nam công tác, kể cả chỉ 01
ngày. Quy định này gần như không có nhiều ý nghĩa về mặt thực tế và khiến cá
nhân không thể tuân thủ, đặc biệt trong trường hợp cá nhân chỉ sang làm việc ở
Việt Nam vài ngày.
Trên thế giới, nhiều quốc
gia đã quy định một số trường hợp mà cá nhân nước ngoài được miễn trừ nghĩa vụ
kê khai thuế TNCN, nếu có mặt hoặc có thu nhập phát sinh tại nước đó dưới ngưỡng
quy định, ví dụ:
- Hoa Kỳ: có mặt tại Mỹ
không quá 90 ngày/năm tính thuế hoặc có thu nhập phát sinh tại Mỹ không quá
3.000 Đô la Mỹ/năm
- Ấn Độ: có mặt tại Ấn Độ
không quá 90 ngày/năm
- Malaysia, Singapore: có mặt
tại các nước này không quá 60 ngày/năm
Ngoài ra, luật lao động cũng
có quy định về việc miễn giấy phép lao động cho người nước ngoài sang Việt Nam
làm việc dưới 30 ngày/lần hoặc không quá 90 ngày/năm.
Hiệp hội doanh nghiệp châu
Âu kính đề nghị Bộ Tài chính xem xét và
cân nhắc đưa ra quy định về việc cá nhân nước ngoài sang công tác ngắn ngày tại
Việt Nam không phải kê khai thuế TNCN tại Việt Nam trên phần thu nhập phát sinh
tại Việt Nam nhưng nhận tại nước ngoài nếu thỏa mãn một số điều kiện về số ngày
có mặt tại Việt Nam để phù hợp với thông lệ quốc tế, thống nhất giữa quy định
thuế và lao động, cũng như tạo điều kiện để việc tuân thủ quy định thuế trở nên
khả thi với người nộp thuế.
Nội
dung trả lời:
Luật thuế TNCN của Việt Nam
xây dựng hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt là các Hiệp định
tránh đánh thuế hai lần. Đồng thời Luật thuế TNCN cũng đảm bảo các quy định về
thuế chung như đánh thuế TNCN tại Việt Nam theo tình trạng cư trú, chứ không
theo số ngày tại Việt Nam. Trường hợp chỉ căn cứ theo số ngày có mặt tại Việt
Nam mà không đánh thuế đối với những khoản thu nhập lớn phát sinh tại Việt Nam
thì không phù hợp với nguyên tắc tại các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần và
thông lệ quốc tế.
8. Kiến
nghị số 45
Hiện tại, thuế thu nhập
doanh nghiệp của Việt Nam phải tạm nộp theo quý, và nếu tổng số tiền dự kiến nộp
hàng quý nhỏ hơn 80% số thuế doanh nghiệp sau khi quyết toán thì sẽ bị áp dụng
phạt thuế chậm nộp đối với số tiền chưa nộp.
Tuy nhiên, do ngày đến hạn
thanh toán trong quý 4 là vào cuối tháng 1 năm sau, nên cuối cùng công ty phải
quyết toán chậm nhất vào cuối tháng 1 để tính số thuế doanh nghiệp phải nộp cuối
cùng và tính 80% cho phù hợp.
Do đó, thời hạn quyết toán đến
cuối tháng 3 theo luật trên thực tế không được áp dụng và doanh nghiệp phải quyết
toán trước tháng 1 để tránh nộp thuế phạt bổ sung nên phát sinh rất nhiều khó
khăn cho doanh nghiệp.
Đề xuất cần cải thiện sửa đổi
ví dụ như đối với khoản tạm nộp hàng quý, khi nộp số tiền được điều chỉnh hợp
lý được tính toán theo kết quả kinh doanh hàng quý của năm hiện tại lấy tiêu
chuẩn là 1/4 số thuế doanh nghiệp đã nộp trong năm trước thì sẽ không phải nộp
khoản thuế phạt chậm nộp, v..v.
Nội
dung trả lời:
Bộ Tài chính đang nghiên cứu để ban hành Thông tư quy định
chi tiết Luật Quản lý thuế, trong đó sẽ xem xét hướng dẫn thực hiện quy định tạm
nộp thuế TNDN theo quý cho phù hợp với thực tế và quy định của Luật Quản lý thuế.
9. Kiến
nghị số 46
Trong kinh doanh và xuất khẩu
cà phê, chính sách thuế này khuyến khích các công ty bán cà phê giao ngay cho
các công ty nước ngoài, trong khi thị trường cà phê kỳ hạn vẫn có thể bù đắp
chi phí lãi vay khi giữ cà phê ở Việt Nam khi thị trường đang có cấu trúc
'contango' (giá tương lai của hàng hóa cao hơn giá giao ngay được dự kiến trong
tương lai).
Điều đó nghĩa là doanh nghiệp
xuất khẩu bỏ lỡ lợi nhuận từ giao dịch vì lợi nhuận được ghi nhận bởi đơn vị nước
ngoài nơi đặt sổ kinh doanh.
Ngoài ra, các công ty thương
mại Anh không thể giao dịch với đối tác liên doanh địa phương cũng là doanh
nghiệp xuất khẩu cà phê, vì sau đó họ sẽ phải chịu trách nhiệm về thuế này. Trước
khi áp dụng thuế này, các công ty thương mại Anh đã thường xuyên giao dịch với
đối tác liên doanh bất cứ khi nào doanh nghiệp có cà phê với phẩm chất đặc biệt
mà họ cần.
Britcham Việt Nam kiến nghị
về việc hủy mức trần về chi phí lãi vay cho cà phê và các lĩnh vực kinh doanh
hàng hóa khác. Quy định được đưa ra với ý định tốt nhưng không thực tế trong thực
tiễn, hoặc tối thiểu trong ngành kinh doanh cà phê.
Nội
dung trả lời:
Tại
điểm b khoản 3 Điều 16 Nghị định 132/2020/NĐ-CP thay thế cho Nghị định số
20/2017/NĐ-CP đã sửa đổi quy định về lãi cho vay để tạo điều kiện tháo gỡ khó
khăn của doanh nghiệp nói chung, cụ thể:
“a) Tổng chi phí
lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ của người nộp thuế được trừ khi xác định thu
nhập chịu thuế thu nhập doanh nghiệp không vượt quá 30% của tổng lợi nhuận thuần
từ hoạt động kinh doanh trong kỳ cộng
chi phí lãi vay sau khi trừ lãi tiền gửi và lãi cho vay phát sinh trong kỳ
cộng chi phí khấu hao phát sinh trong kỳ của người nộp thuế.
b) Phần chi phí lãi
vay không được trừ theo quy định tại điểm a khoản này được chuyển sang kỳ tính
thuế tiếp theo khi xác định tổng chi phí lãi vay được trừ trong trường hợp tổng chi phí
lãi vay phát sinh được trừ của kỳ tính thuế tiếp theo thấp hơn mức quy định tại
điểm a khoản này. Thời gian chuyển chi
phí lãi vay tính liên tục không quá năm (05) năm kể từ năm tiếp sau năm phát
sinh chi phí lãi vay không được trừ.”.
Quy định khống chế chi phí
lãi vay được trừ đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết đã được Việt
Nam tham khảo hành động số 4 của BEPS để chống xói mòn nguồn thu, chống chuyển
lợi nhuận, chống chuyển giá, phù hợp với thông lệ quốc tế chung và hướng dẫn của
OECD tại Nghị định số 132/2020/NĐ-CP về giá chuyển nhượng (mà Chính phủ Liên hiệp
Anh là một thành viên của OECD). Theo đó, đề nghị doanh nghiệp thực hiện theo
quy định của pháp luật hiện hành.
10. Kiến
nghị số 47
Theo quy định hiện hành của
Việt Nam, đối tượng nộp báo cáo chuyển giá là những doanh nghiệp có doanh thu
hàng năm khoảng 2,24 triệu đô la Mỹ (50 tỷ đồng) trở lên và giao dịch với các
bên liên quan là 1,35 triệu đô la (30 tỷ đồng).
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ,
chiếm phần lớn trong số các công ty có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, là đối
tượng phải nộp báo cáo và việc đáp ứng được quy định này là một gánh nặng rất lớn
cho các doanh nghiệp.
Ngoài ra, nếu
cơ quan thuế Việt Nam kiểm tra thuế giá chuyển nhượng và bị đánh thuế bổ sung
thì sẽ phát sinh vấn đề doanh nghiệp bị đánh thuế hai lần do tập đoàn mẹ Hàn Quốc
cũng phải nộp thuế tại Hàn Quốc, và hiện nay không có phương tiện hay cách thức
nào để có thể đưa ra kiến nghị sửa đổi.
Tất nhiên,
các quy định pháp luật có cơ sở để đưa ra kiến nghị, nhưng thực tế không dễ để
các doanh nghiệp vừa và nhỏ thực hiện thủ tục này do vấn đề về chi phí và thời
gian.
Đề xuất cần tăng đáng kể các
điều kiện áp dụng chứng từ giá chuyển nhượng, và thứ hai, thành lập Uỷ ban kiểm
tra đặc biệt về giá chuyển nhượng (có sự tham gia của các chuyên gia cơ quan
thuế và các công ty thuộc lĩnh vực tư nhân như công ty kế toán v..v) có thể tiếp
nhận và xử lý các kiến nghị về việc đánh thuế giá chuyển nhượng để giúp các
doanh nghiệp vừa và nhỏ có thể nhận được sự hỗ trợ và ưu đãi thoả đáng.
Nội
dung trả lời:
- Về đề xuất cần tăng đáng kể
các điều kiện áp dụng chứng từ giá chuyển nhượng để giúp các DN vừa và nhỏ có
thể nhận được sự hỗ trợ và ưu đãi thỏa đáng:
Theo Khoản 1, Khoản 2 Điều
19 các trường hợp người nộp thuế được miễn kê khai, miễn lập Hồ sơ xác định giá
giao dịch liên kết tại Nghị định 132/2020/NĐ-CP ngày 05/11/2020 thì ngoài việc
các DN vừa và nhỏ có phát sinh giao dịch liên kết nhưng tổng doanh thu phát
sinh của kỳ tính thuế dưới 50 tỷ đồng và tổng giá trị tất cả các giao dịch liên
kết phát sinh trong kỳ tính thuế dưới 30 tỷ đồng thì đối tượng được áp dụng tại
điều này còn có các trường hợp khác như:
+ Trường hợp chỉ phát sinh
giao dịch với các bên liên kết là đối tượng nộp thuế thu nhập doanh nghiệp tại
Việt Nam, áp dụng cùng mức thuế suất thuế thu nhập doanh nghiệp với người nộp
thuế và không bên nào được hưởng ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp trong kỳ
tính thuế.
+ Người nộp thuế đã ký kết
Thỏa thuận trước về phương pháp xác định giá tính thuế thực hiện nộp Báo cáo
thường niên theo quy định pháp luật về Thỏa thuận trước về phương pháp xác định
giá tính thuế. Các giao dịch liên kết không thuộc phạm vi áp dụng Thỏa thuận
trước về phương pháp xác định giá tính thuế, người nộp thuế có trách nhiệm kê
khai xác định giá giao dịch liên kết theo quy định tại Điều 18 Nghị định này.
+ Người nộp thuế thực hiện
kinh doanh với chức năng đơn giản, không phát sinh doanh thu, chi phí từ hoạt động
khai thác, sử dụng tài sản vô hình, có doanh thu dưới 200 tỷ đồng, áp dụng tỷ
suất lợi nhuận thuần chưa trừ chi phí lãi vay và thuế thu nhập doanh nghiệp
(không bao gồm chênh lệch doanh thu và chi phí của hoạt động tài chính) trên
doanh thu thuần, bao gồm các lĩnh vực như sau:
Phân phối: Từ 5% trở lên;
Sản xuất: Từ 10% trở lên;
Gia công: Từ 15% trở lên.
Như vậy, các doanh nghiệp vừa
và nhỏ có vốn đầu tư nước ngoài khi có đủ điều kiện nêu trên cũng được miễn kê
khai, miễn lập Hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết tùy theo từng trường hợp.
Đồng thời, quy định nêu trên
cũng áp dụng cho cả DN vừa và nhỏ trong nước.
- Đề xuất thành lập Ủy ban
kiểm tra đặc biệt về giá chuyển nhượng (có sự tham gia của các chuyên gia cơ
quan thuế và các công ty thuộc lĩnh vực tư nhân như công ty kế toán …) có thể
tiếp nhận và xử lý các kiến nghị về việc đánh thuế giá chuyển nhượng để giúp
các DN vừa và nhỏ có thể nhận được sự hỗ trợ và ưu đãi thỏa đáng: Điều 20 Nghị
định 132/2020/NĐ-CP ngày 05/11/2020 quy định rõ trách nhiệm và quyền hạn của Cơ
quan thuế trong quản lý giá giao dịch liên kết nên việc tiếp nhận và xử lý các
kiến nghị về việc đánh thuế giá chuyển nhượng được Chính phủ giao cho cơ quan
Thuế thực hiện. Đồng thời cơ quan Thuế được áp dụng quản lý rủi ro trong việc lập
kế hoạch thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp có quan hệ liên kết và giao dịch liên
kết; Trường hợp trong quản lý thuế đối với giao dịch liên kết có phát sinh vướng
mắc về cơ chế, chính sách liên quan đến các ngành, lĩnh vực chuyên ngành, Cơ
quan thuế lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân liên quan. Vì vậy, việc
thành lập Ủy ban kiểm tra đặc biệt về giá chuyển nhượng là không cần thiết và
không phù hợp với quy định hiện hành.
11. Kiến nghị số 48
Hiện tại: Thủ tục kiểm tra hải
quan đối với việc xả chất thải định kỳ là 6 tháng hoặc 1 năm. Vấn đề: Xảy ra bất
hợp lý, cần phải để phế thải công nghiệp trong nhà máy lâu ngày để hải quan kiểm
tra
Đề xuất cải thiện bằng cách
kiểm tra hải quan hàng tháng sau đó thực hiện xử lý đốt chất thải công nghiệp.
Nội
dung trả lời:
Theo quy định của pháp luật
về Bảo vệ môi trường thì cơ quan hải quan không thực hiện kiểm tra việc xả chất
thải của doanh nghiệp. Nội dung này thuộc cơ quan chức năng quản lý nhà nước về
môi trường là Sở TNMT hoặc Bộ TNMT. Do vậy, đề nghị Hiệp hội làm việc với cơ
quan chuyên ngành này để được xem xét hướng dẫn.
12. Kiến
nghị số 49 và số 60
* Kiến
nghị số 49:
Hiện tại: Phải nộp thuế hải
quan khi nhập khẩu phụ tùng xe nâng để bán trong nước (Tối thiểu 5% ~ Tối đa
25% / Trung bình 15%). Tuy nhiên, khi nhập khẩu và bán xe nâng thành phẩm được
miễn thuế / có sự phân biệt đối với các nhà sản xuất trong nước.
Có giảm thuế đối với các bộ
phận nhập khẩu để sản xuất xe nâng. Mở rộng phạm vi áp dụng các bộ phận dung
cho sản xuất xe nâng ( Mã HS8431.20) hoặc mở rộng việc áp dụng miễn thuế suất
0% đối với các bộ phận chung cho sản xuất xe nâng. Cần có các tiêu chuẩn quản
lý một cách có hệ thống đối với xe nâng nhập khẩu
- Áp thuế nhập khẩu xe nâng
đã hoàn thành: Hiện tại 0% / Áp dụng trong tương lai (trên 30%)
- Bao gồm phê duyệt hình thức
Việt Nam cho xe nâng nhập khẩu (đã qua sử dụng và mới)
* Kiến nghị
số 60:
Trong những năm gần đây, việc
phát triển các ngành công nghiệp, điện tử, cơ khí luôn được tối ưu tiên và khuyến
khích trong chính sách phát triển kinh tế của Nhà nước Việt Nam, Tuy nhiên, có
một thực tế là hiện nay, thuế suất thuế nhập khẩu của nhiều linh kiện, thiết bị
rời lại cao hơn thuế suất của thiết bị máy móc hoàn chỉnh, và do đó không có
tính chất hỗ trợ phát triển sản xuất, lắp ráp trong nước. Ví dụ: Clark Material
Handling Việt Nam là công ty sản xuất và kinh doanh xe nâng và logistics, được
thành lập vào tháng 8 năm 2018 và vận hành 3 nhà máy tại tỉnh Hải Dương với
công suất sản xuất 3.000 chiếc/năm. Xe nâng thành phẩm nhập khẩu có thuế suất 0%,
trong khi các bộ phận của xe nâng (ác quy điện, ghế ngồi cho xe có động cơ, cụm
trục, v.v) không thuộc nhóm mã HS 8431.20 có thuế suất từ 5-25%
Để thúc đẩy sự phát triển của
ngành sản xuất, lắp ráp cơ khí tại Việt Nam, kiến nghị Quốc hội cũng như rà soát
lại biểu thuế suất thuế nhập khẩu với phụ tùng, linh kiện cơ khí và cần có
chính sách khuyến khích cũng như ưu đãi đối với ngành nghề này.
Theo Nhóm công tác Thuế
& Hải quan được biết, Tổng cục Hải quan đã xử lý cho trường hợp tương tự bằng
cách cho phép doanh nghiệp nộp toàn bộ danh sach linh kiện nhập khẩu phục vụ sản
xuất, lắp ráp để rà soát và xử lý hoàn thuế sau khi hoàn tất (tương tự như với
chương tình ưu đãi với linh kiện ô tô theo Nghị định 125/2017/NĐ-CP). Nếu chưa
thể sửa đổi biểu thuế, rất mong Chính phủ và Tổng cục Hải quan có thể quy định
hóa, mở rộng ưu đãi như với hoạt động nhập khẩu linh kiện, phụ tùng để lắp
ráp/sản xuất ô tô cho các ngành công nghiệp sản xuất/lắp ráp máy móc thiết bị
khác.
Nội
dung trả lời:
Thuế
suất thuế nhập khẩu ưu đãi của các mặt hàng linh kiện, phụ tùng, thiết bị, máy
móc nguyên chiếc tại Nghị định số 57/2020/NĐ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ sửa
đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 122/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của
Chính phủ về Biểu thuế xuất khẩu, Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi, Danh mục hàng hóa
và mức thuế tuyệt đối, thuế hỗn hợp, thuế nhập khẩu ngoài hạn ngạch thuế quan
và Nghị định số 125/2017/NĐ-CP ngày 16/11/2017 sửa đổi, bổ sung một số điều của
Nghị định số 122/2016/NĐ-CP và các Nghị định của Chính phủ ban hành Biểu thuế
nhập khẩu ưu đãi đặc biệt được quy định trên cơ sở các nguyên tắc tại Điều 10
Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số 107/2016/QH13. Theo đó, thiết bị, linh
kiện, phụ tùng trong nước chưa sản xuất được thì quy định mức thuế suất thấp,
cơ bản là 0%. Đối với những thiết bị, linh kiện, phụ tùng trong nước đã sản xuất
được hoặc chưa sản xuất được nhưng có định hướng khuyến khích đầu tư được quy định
mức thuế suất phù hợp nhằm bảo hộ, khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư sản xuất được các mặt hàng này. Nhìn
chung, thuế suất của bộ phận, linh kiện, phụ tùng, thiết bị được quy định mức
thuế suất thấp hơn hoặc bằng sản phẩm nguyên chiếc.
Đối
với trường hợp của Công ty TNHH Clark Material Handling Việt Nam: Theo quy định
tại Nghị định số 57/2020/NĐ-CP, bộ phận chỉ sử dụng hoặc chủ yếu sử dụng cho xe
nâng (phân nhóm 8431.2x) có thuế nhập khẩu ưu đãi là 0%. Đối với một số linh kiện,
phụ tùng để sản xuất, lắp ráp xe nâng có mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi từ
5%-25% do đây là các mặt hàng trong nước đã sản xuất được (ví dụ, ghế, màn hình
hiển thị, ắc quy, hộp số...), hoặc thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp ưu tiên
phát triển theo định hướng của Chính phủ (ví dụ, ắc quy, hộp số...). Mặt khác, các mặt hàng này không chỉ dùng để
sản xuất, lắp ráp xe nâng mà còn sử dụng trong nhiều mặt hàng khác như ô tô, cơ
khí....Thị trường nhập khẩu của các mặt hàng này chủ yếu từ Trung Quốc, Nhật Bản,
Hàn Quốc, các nước ASEAN, trong khi đó thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo cam
kết tại các Hiệp định FTA từ các nước/khối nước này hiện nay đã cắt giảm về bằng
0% hoặc mức thấp. Theo đó, đề nghị các doanh nghiệp thực hiện theo quy định hiện
hành và tìm kiếm các thị trường nhập khẩu mặt hàng từ các nước/khu vực đã có ký
kết về Hiệp định thương mại với Việt Nam để được hưởng mức thuế nhập khẩu ưu
đãi đặc biệt đối với mặt hàng nêu trên.
Đối
với kiến nghị mở rộng ưu đãi cho linh kiện phụ tùng nhập khẩu để sản xuất sản
phẩm cơ khí tương tự như Chương trình ưu đãi thuế linh kiện ô tô, Bộ Tài chính
sẽ tiếp tục tổng kết, nghiên cứu trong giai đoạn tới.
13. Kiến
nghị số 50
Theo Chính sách hiện hành,
các doanh nghiệp Nhật Bản sẽ được nhận ưu đãi về thuế bằng cách nộp đơn xin cho
Cơ quan có thẩm quyền để đăng ký đầu tư dự án từ 6 nghìn tỷ VNĐ trở lên trong 3
năm. Đầu tiên họ sẽ đầu tư vào dự án có quy mô vừa và nhỏ, sau đó mới đưa ra
quyết định chuyển sang đầu tư quy mô lớn dựa trên đánh giá thực tế phản ứng thị
trường dựa trên khoản đầu tư ban đầu. Bởi vậy, chúng tôi tin tưởng rằng nếu
chính phủ cho phép doanh nghiệp được chứng nhận đầu tư quy mô lớn tính theo lũy
kế thì Việt Nam sẽ có thêm nhiều dự án lớn hơn 6 nghìn tỷ đồng hơn nữa
Đề xuất Chính phủ Việt Nam sẽ
cho phép áp dụng Chính sách ưu đãi thuế đối với trường hợp doanh nghiệp thực hiện
đầu tư từ 6 nghìn tỷ VNĐ trở lên tính theo lũy kế bao gồm cả số tiền đầu tư
tăng thêm sau khi đã đăng ký dự án đầu tư, hoặc sau khi đã thực hiện đầu tư cho
cùng lĩnh vực trong thời gian trước đây.
Nội
dung trả lời:
Theo
quy định tại khoản 7, khoản 8 Điều 1 Luật thuế TNDN số 32/2013/QH13 thì “Thu
nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu tư mới trong lĩnh vực sản xuất
(trừ dự án sản xuất mặt hàng thuộc diện chịu thuế tiêu thụ đặc biệt, dự án khai
thác khoáng sản) đáp ứng một trong hai tiêu chí sau:
-
Dự án có quy mô vốn đầu tư tối thiểu sáu nghìn tỷ đồng, thực hiện giải ngân
không quá ba năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đầu tư và có tổng doanh
thu tối thiểu đạt mười nghìn tỷ đồng/năm, chậm nhất sau ba năm kể từ năm có
doanh thu;
-
Dự án có quy mô vốn đầu tư tối thiểu sáu nghìn tỷ đồng, thực hiện giải ngân
không quá ba năm kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đầu tư và sử dụng trên ba
nghìn lao động” được áp dụng thuế suất ưu đãi 10% trong 15 năm, miễn thuế 04
năm và giảm 50% số thuế phải nộp trong 9 năm tiếp theo.
Căn
cứ vào quy định nêu trên thì ưu đãi thuế TNDN đối với dự án đầu tư có quy mô
vốn đầu tư từ 6 nghìn tỷ VNĐ trở lên là áp dụng đối với dự án đầu tư mới. Trường
hợp doanh nghiệp thực hiện dự án đầu tư mở rộng để tăng quy mô đầu tư của dự án
đang hoạt động nhằm nâng tổng quy mô đầu tư của cả 2 dự án lên mức hơn 6 nghìn
tỷ đồng thì không thuộc trường hợp dự án đầu tư mới hưởng ưu đãi thuế theo quy
định nêu trên. Bộ Tài chính đề nghị thực hiện theo quy định của Luật thuế TNDN
hiện hành.
14. Kiến
nghị số 51
Sau khi Nghị định
82/2018/NĐ-CP có hiệu lực thi hành, đã có một số trường hợp doanh nghiệp không
được cấp giấy phép EPE cho đến khi nhà máy được xây dựng xong, và phải chịu các
loại thuế phí liên quan đến việc lấy đất, xây dựng nhà xưởng và nhập khẩu thiết
bị mà những loại thuế này đáng lẽ ra được miễn. Đây là gánh nặng trong quá
trình hoạt động kinh doanh đối với doanh nghiệp đầu tư vào Việt Nam
Mong muốn khi thực hiện cấp
giấy phép EPE, chính phủ Việt nam quy định rõ trong văn bản sẽ miễn một phần
chi phí liên quan đến việc lấy đất, xây dựng nhà xưởng, nhập khẩu thiết bị mà
doanh nghiệp đã trả trước khi được cấp giấy phép. Hơn nữa, Hiệp hội doanh nghiệp
Nhật Bản đặc biệt rất mong chính phủ sẽ cấp giấy phép EPE cùng lúc khi xin cấp
Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư như trước đây.
Nội
dung trả lời:
Tại Điều
28a Nghị định số 18/2021/NĐ-CP ngày 11/3/2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 134/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 quy định chi tiết
một số điều và biện pháp thi hành Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, có hiệu
lực thi hành kể từ ngày 25/4/2021, đã sửa đổi, bổ sung các quy định về điều
kiện kiểm tra, giám sát hải quan và áp dụng chính sách thuế đối với doanh
nghiệp chế xuất (DNCX) là khu phi thuế quan để đảm bảo tính đồng bộ giữa pháp
luật về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu và pháp luật đầu tư. Theo đó đề nghị
thực hiện theo quy định tại Nghị định số 18/2021/NĐ-CP.
15. Kiến
nghị số 52
Cho đến hiện tại, đã có nhiều
doanh nghiệp Nhật Bản đầu tư vào Việt Nam nhờ những Chính sách ưu đãi do Chính
phủ Việt Nam ban hành. Việc thiết lập các chính sách ưu đãi tốt hơn nữa là chìa
khóa quan trọng giúp thu hút toàn bộ chuỗi cung ứng bao gồm cả các ngành công
nghiệp phụ trợ của các công ty Nhật bản thường sẽ có nhiều công ty hợp tác xung
quanh một công ty lớn. Giữa công ty lớn và các công ty hợp tác có phân chia vai
trò phức tạp và chặt chẽ liên quan đến hoạt động sản xuất. Chúng tôi cho rằng
việc thu hút không chỉ các doanh nghiệp lớn mà cả các công ty hợp tác của doanh
nghiệp đó, nghĩa là thu hút cả một chuỗi hệ thống sản xuất sẽ tạo ra nhiều lợi
thế hơn cho Việt Nam. Bằng cách đó, không chỉ các công ty lớn đầu tư vào Việt
Nam, mà còn thu hút và tạo điều kiện cho các công ty hợp tác của công ty lớn đó
cũng có thể đầu tư vào Việt Nam
Mong muốn chính phủ Việt Nam
cho phép áp dụng Chính sách ưu đãi thuế doanh nghiệp đối với từng công ty thông
qua việc xem xét từng dự án của công ty đó có đủ điều kiện nhận ưu đãi thuế hay
không. Tuy nhiên, trong trường hợp thỏa mãn điều kiện là khoản đầu tư vào lĩnh
vực công nghệ cao, hoặc số tiền đầu tư vượt quá một hạn mức nhất định thì rất
mong chính phủ phê duyệt ưu đãi thuế cho toàn bộ công ty trong chuỗi cung ứng
đó.
Nội
dung trả lời:
Chính sách ưu đãi thuế TNDN
được thực hiện theo quy định của Luật thuế TNDN do Quốc hội ban hành.
Kể từ năm 2014, chính sách
ưu đãi thuế TNDN đã được áp dụng đối với đối tượng là dự án đầu tư của doanh
nghiệp (thay vì xét theo pháp nhân như trước năm 2014) thuộc lĩnh vực ưu đãi
thuế TNDN (trong đó bao gồm lĩnh vực công nghệ cao, dự án đầu tư có quy mô vốn
lớn (tối thiểu 6 nghìn tỷ đồng hoặc 12 nghìn tỷ đồng đáp ứng điều kiện về giải
ngân vốn, về công nghệ) hoặc thực hiện tại địa bàn ưu đãi đầu tư theo pháp luật
về đầu tư (địa bàn có điều kiện KT-XH khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn, Khu kinh
tế, Khu công nghệ cao, Khu công nghiệp). Đồng thời, Luật thuế TNDN cũng đã có
quy định rõ việc ưu đãi thuế TNDN đối với dự án đầu tư mới và đầu tư mở rộng (mức
ưu đãi, điều kiện ưu đãi).
Do đó, đề nghị DN căn cứ quy
định của Luật thuế TNDN và các văn bản hướng dẫn để thực hiện cho phù hợp.
16. Kiến
nghị số 53
Khi doanh nghiệp Nhật Bản tại
Việt Nam (ví dụ doanh nghiệp sản xuất ô tô) đầu tư thiết bị cho nhà máy sản xuất,
họ rơi vào tình trạng rất khó đầu tư vốn cho dây chuyền sản xuất sản phẩm dành
cho thị trường nội địa vì thị trường nội địa Việt Nam chưa phát triển đến quy
mô giúp doanh nghiệp có thể thu hồi khoản vốn đầu tư này.
Trong việc thu hút đầu tư
cho ngành công nghiệp sản xuất, chúng tôi thấy ngành công nghiệp vật liệu (như
kim loại và nhựa chất lượng cao) chưa phát triển ở Việt Nam. Hơn nữa, cho dù
doanh nghiệp Nhật Bản đã phát triển được mạng lưới nhà cung cấp tại Việt Nam đi
nữa thì khi đạt đến một mức độ nhất định, các nhà cung cấp này sẽ ngừng chuyển
hướng kinh doanh với các quốc gia khác thay vì tiếp tục hợp tác với doanh nghiệp
Nhật Bản. Kết quả tất yếu là sự phụ thuộc vào vật liệu nhập khẩu sẽ ngày càng
tăng, khiến ngành công nghiệp vật liệu có giá trị gia tăng và chất lượng cao tại
Việt Nam khó có thể phát triển được
Cho đến khi thị trường trong
nước phát triển, Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản mong muốn chính phủ xem xét việc
áp dụng biện pháp hỗ trợ tài chính và ưu đãi thuế đối với hoạt động đầu tư vốn
vào trang thiết bị như khuôn mẫu và đồ gá, nhằm thúc đầy đầu tư từ các hãng sản
xuất ô tô.
Để thu hút doanh nghiệp Nhật
Bản sản xuất các sản phẩm tiên tiến, cao cấp và phát triển mạng lưới nhà cung cấp
có thể sản xuất vật liệu có giá trị gia tăng và chất lượng cao tại Việt Nam,
chúng tôi mong rằng chính phủ Việt Nam xem xét áp dụng các Chính sách khuyến
khích, chẳng hạn như ưu đãi thuế cho nhà cung cấp và các doanh nghiệp có kế hoạch
mở rộng, phát triển mạng lưới nhà cung cấp sản xuất các vật liệu có giá trị gia
tăng và chất lượng cao.
Nội
dung trả lời:
Hệ thống pháp luật thuế hiện
hành đã có quy định về các chính sách ưu đãi thuế nhằm khuyến khích các dự án đầu
tư sản xuất vật liệu composite, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm
và dự án đầu tư sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ (trong đó có các sản phẩm
khuôn mẫu, đồ lắp ráp) thuộc danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát
triển theo quy định của Chính phủ về phát triển công nghiệp hỗ trợ (là ngành
nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư theo quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Nghị
định số 31/2021/NĐ-CP ngày 26/3/2021 của Chính phủ), cụ thể như:
* Về thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu:
Điều 16 Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu số
107/2016/QH13 ngày 06/4/2016 quy định:
“Điều 16. Miễn thuế
…
11. Hàng
hóa nhập khẩu để tạo tài sản cố định của đối tượng được hưởng ưu đãi đầu tư
theo quy định của pháp luật về đầu tư, bao gồm:
a) Máy
móc, thiết bị; linh kiện, chi Tiết, bộ phận rời, phụ tùng để lắp ráp đồng bộ
hoặc sử dụng đồng bộ với máy móc, thiết bị; nguyên liệu, vật tư dùng để chế tạo
máy móc, thiết bị hoặc để chế tạo linh kiện, chi Tiết, bộ phận rời, phụ tùng của
máy móc, thiết bị;
b) Phương
tiện vận tải chuyên dùng trong dây chuyền công nghệ sử dụng trực tiếp cho hoạt
động sản xuất của dự án;
c) Vật tư
xây dựng trong nước chưa sản xuất được.
Việc miễn
thuế nhập khẩu đối với hàng hóa nhập khẩu quy định tại Khoản này được áp dụng
cho cả dự án đầu tư mới và dự án đầu tư mở rộng.
…
13. Nguyên
liệu, vật tư, linh kiện trong nước chưa sản xuất được nhập khẩu để sản xuất của
dự án đầu tư thuộc danh Mục ngành, nghề đặc biệt ưu đãi đầu tư hoặc địa bàn có
Điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn theo quy định của pháp luật về đầu
tư, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp khoa học và công nghệ, tổ chức
khoa học và công nghệ được miễn thuế nhập khẩu trong thời hạn 05 năm, kể từ khi
bắt đầu sản xuất.
Việc miễn
thuế nhập khẩu quy định tại Khoản này không áp dụng đối với dự án đầu tư khai
thác khoáng sản; dự án sản xuất sản phẩm có tổng trị giá tài nguyên, khoáng sản
cộng với chi phí năng lượng chiếm từ 51% giá thành sản phẩm trở lên; dự án sản
xuất, kinh doanh hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế tiêu thụ đặc biệt.”
* Về thuế sử dụng đất
phi nông nghiệp:
- Khoản 1 Điều 9 Luật Thuế sử
dụng đất phi nông nghiệp quy định:
“Điều 9. Miễn thuế
1. Đất của
dự án đầu tư thuộc lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư; dự án đầu tư tại địa
bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn; dự án đầu tư thuộc lĩnh vực
khuyến khích đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn; đất của
doanh nghiệp sử dụng trên 50% số lao động là thương binh, bệnh binh.”
* Về thuế
TNDN:
Theo Luật Thuế TNDN hiện
hành (Điều 13 và Điều 14) và các văn bản hướng dẫn đã quy định cụ thể ưu đãi
thuế (Thuế suất 10% trong 15 năm, miễn thuế 04 năm và giảm 50% số thuế phải nộp
trong 09 năm tiếp theo) đối với: thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án đầu
tư mới sản xuất vật liệu composite, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu
quý hiếm và dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc danh mục sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển do Chính phủ quy định đáp ứng một trong các
tiêu chí
- Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
cho công nghệ cao theo quy định của Luật Công nghệ cao
- Sản phẩm công nghiệp hỗ trợ
cho sản xuất sản phẩm các ngành: dệt - may; da - giầy; điện tử - tin học; sản
xuất lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo mà các sản phẩm này tính đến ngày 01
tháng 01 năm 2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất được nhưng phải
đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên minh Châu Âu (EU) hoặc tương đương.
Theo điểm 4 khoản 8 Điều 1
Luật số 32/2013/QH13 ngày 19/6/2013 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế
thu nhập doanh nghiệp quy định:
“Trường hợp doanh nghiệp có dự án đầu tư phát triển dự án đầu tư đang
hoạt động thuộc lĩnh vực, địa bàn ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định
của Luật này mở rộng quy mô sản xuất, nâng cao công suất, đổi mới công nghệ sản
xuất (đầu tư mở rộng) nếu đáp ứng một trong ba tiêu chí quy định tại khoản này
thì được lựa chọn hưởng ưu đãi thuế theo dự án đang hoạt động cho thời gian còn
lại (nếu có) hoặc được miễn thuế, giảm thuế đối với phần thu nhập tăng thêm do
đầu tư mở rộng. Thời gian miễn thuế, giảm thuế đối với thu nhập tăng thêm do đầu
tư mở rộng quy định tại khoản này bằng với thời gian miễn thuế, giảm thuế áp dụng
đối với dự án đầu tư mới trên cùng địa bàn, lĩnh vực ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp.
Dự án đầu
tư mở rộng được hưởng ưu đãi quy định tại khoản này phải đáp ứng một trong các
tiêu chí sau:
a) Nguyên
giá tài sản cố định tăng thêm khi dự án đầu tư hoàn thành đi vào hoạt động đạt
tối thiểu từ hai mươi tỷ đồng đối với dự án đầu tư mở rộng thuộc lĩnh vực hưởng
ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp theo quy định của Luật này hoặc từ mười tỷ đồng
đối với các dự án đầu tư mở rộng thực hiện tại địa bàn có điều kiện kinh tế -
xã hội khó khăn hoặc địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn
theo quy định của pháp luật;
b) Tỷ trọng
nguyên giá tài sản cố định tăng thêm đạt tối thiểu từ 20% so với tổng nguyên
giá tài sản cố định trước khi đầu tư;
c) Công suất
thiết kế tăng thêm tối thiểu từ 20% so với công suất thiết kế trước khi đầu tư.
Trường hợp
doanh nghiệp đang hoạt động có đầu tư mở rộng thuộc lĩnh vực, địa bàn ưu đãi
thuế theo quy định của Luật này mà không đáp ứng một trong ba tiêu chí quy định
tại khoản này thì áp dụng ưu đãi thuế theo dự án đang hoạt động cho thời gian
còn lại (nếu có).”
* Về các biện pháp hỗ trợ tài chính đối với tín dụng đầu tư:
Hiện nay, chính sách tín dụng
đầu tư của Nhà nước được thực hiện thống nhất theo quy định tại Nghị định số
32/2017/NĐ-CP ngày 31/3/2017 của Chính phủ về tín dụng đầu tư của Nhà nước,
trong đó :
+ Danh mục các dự án đầu tư
bao gồm: Dự án đầu tư sản xuất sản phẩm cơ khi trọng điểm theo Quyết định của
Thủ tướng Chính phủ; Dự án đầu tư thuộc danh mục các ngành công nghiệp hỗ trợ
theo Quyết định của Thủ tướng Chính phủ; Dự án ứng dụng công nghệ cao, dự án đầu
tư sản xuất sản phẩm công nghệ cao theo danh mục công nghệ cao do Thủ tướng
Chính phủ ban hành: Dự án đầu tư đổi mới công nghệ theo hướng sử dụng công nghệ
sạch; Dự án đầu tư phương tiện xe buýt sử dụng nhiên liệu thân thiện với môi
trường. Dự án đầu tư sản xuất sản phẩm hình thành từ kết quả khoa học và công
nghệ của doanh nghiệp khoa học và công nghệ theo quy định của pháp luật hiện
hành; Các dự án đầu tư tại địa bàn có điều kiện kinh tế xã hội khó khăn, đặc biệt
khó khăn.
+ Thời hạn vay vốn tín dụng
đầu tư: 12 năm;
+ Lãi suất vay vốn tín dụng
đầu tư do Ngân hàng Phát triển công bố;
+ Ngân hàng Phát triển
(NHPT) là cơ quan thực hiện chính sách tín dụng đầu tư của Nhà nước.
Vì vậy, trường hợp các doanh
nghiệp Nhật Bản sản xuất linh, phụ kiện ngành ô tô dự án có dự án đầu tư thuộc
Danh mục các dự án vay vốn tín dụng đầu tư của Nhà nước ban hành kèm theo Nghị
định số 32/2017/NĐ-CP, đề nghị liên hệ với NHPT để được hướng dẫn thực hiện.
* Về ưu đãi tiền thuê đất:
Theo quy định tại Điều 19
Nghị định số 46/2014/NĐ-CP ngày 15/5/2014 của Chính phủ về thu tiền thuê đất,
thuê mặt nước thì các dự án đầu tư bao gồm cả dự án đầu tư sản xuất vật liệu
conposite, các loại vật liệu xây dựng nhẹ, vật liệu quý hiếm và dự án đầu tư sản
xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ (trong đó có các sản phẩm khuôn mẫu , đồ lắp
ráp) thuộc danh mục lĩnh vực ưu đãi đầu tư và đầu tư tại địa bản khó khăn theo
quy định tại pháp luật về đầu tư thì ngoài thời gian được miễn tiền thuê đất
trong thời gian xây dựng cơ bản (tối đa 03 năm) thì được miễn tiền thuê đất với
mức từ 07 năm đến cả thời hạn thuê đất. Như vậy pháp luật về đất đai đã có ưu
đãi về tiền thuề đất đối với các dự án đầu tư nhằm tạo điều kiện hỗ trợ cho các
doanh nghiệp.
Do vậy, về chính sách ưu đãi
đối với dự án đầu tư sản xuất trang thiết bị nói chung và phục vụ cho lĩnh vực
ô tô nói riêng, dự án đầu tư sản xuất vật liệu có giá trị gia tăng và chất lượng
cao, đề nghị thực hiện ưu đãi theo quy định của pháp luật.
17. Kiến
nghị số 54
Thực hiện quy định tại điều
30.1 và 30.2 của Nghị định 82, khi xem xét cấp phép cho DNCX, cơ quan đầu tư thực
hiện xin ý kiến của cơ quan hải quan. Tuy nhiên, cơ quan hải quan cho rằng chưa
có quy định nào hướng dẫn cụ thể về việc đáp ứng điều kiện kiểm tra, giám sát,
kiểm soát hải quan của cơ quan hải quan và các cơ quan đối với DNCX vì vậy
không có căn cứ để xác nhận điều kiện này. Thêm vào đó, nếu xét về điều kiện
doanh nghiệp chế xuất phải đảm bảo ngăn cách với lãnh thổ bên ngoài bằng hệ thống
tường rào, có cổng và cửa ra, vào bảo đảm điều kiện cho sự kiểm tra, giám sát,
kiểm soát của cơ quan hải quan và các cơ quan chức năng, tại thời điểm xin cấp
Giáy chứng nhận đăng ký đầu tư tư
(“CNĐKĐT”), thì chắc chắn không doanh nghiệp nào có thể đáp ứng vì chỉ sau khi
có Giấy CNĐKĐT doanh nghiệp mới có thể tiến hành hoạt động xây dựng nhà xưởng/cải
tạo nhà xưởng để đáp ứng các điều kiện nêu trên.
Trước thực tế trên, dù cơ
quan đầu tư cấp giấy phép cho doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế DNCX nhưng thường
nêu doanh nghiệp phải đáp ứng các điều kiện quy định để được áp dụng cơ chế
DNCX.
Vì vậy, khi các doanh nghiệp
này nhập khẩu máy móc thiết bị trong giai đoạn đầu tư để xây dựng nhà máy, cơ
quan hải quan thực tế không cho phép doanh nghiệp áp dụng cơ chế DNCX, theo đó
doanh nghiệp vẫn phải nộp thuế ở khâu nhập khẩu. Điều này làm tăng gánh nặng
tài chính cho doanh nghiệp ảnh hưởng đến dòng tiền của nhà đầu tư.
Nhóm công tác Thuế và Hải
quan xin đề nghị Bộ Tài chính cân nhắc sửa đổi Nghị định 82 theo hướng không
đưa ra điều kiện xin ý kiến cơ quan hải quan tại khâu cấp phép cho DNCX. Cơ
quan quản lý đầu tư có thể cấp Giấy chứng nhận đăng ký đầu tư cho phép doanh
nghiệp áp dụng cơ chế DNCX dựa trên phương án đầu tư sản xuất xuất khẩu và cam
kết của doanh nhiệp. DNCX sẽ có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu quy định tại
văn bản pháp quy về hải quan và thuế xuất khẩu, nhập khẩu áp dụng cho khu phi
thuế quan và DNCX. Cơ quan nhà nước sẽ áp dụng cơ chế “ hậu kiểm” để kiểm tra
việc thực hiện việc thực hiện/đáp ứng các điều kiện của DNCX và sẽ áp dụng cơ
chế phạt với các vi phạm của doanh nghiệp.
Nội
dung trả lời:
- Về việc kiến nghị sửa đổi,
bổ sung Nghị định 82/2018/NĐ-CP theo hướng không đưa ra điều kiện xin ý kiến cơ
quan hải quan tại khâu cấp phép cho DNCX: Vấn đề này liên quan đến nội
dung sửa đổi, bổ sung Nghị định thuộc chức
năng, nhiệm vụ của Bộ Kế Hoạch và Đầu tư. Vì vậy, đề nghị doanh nghiệp liên hệ
với Bộ Kế hoạch và Đầu tư để được xem xét
- Về việc đáp ứng điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan của DNCX: nội
dung này, Bộ Tài chính đã trình Chính phủ và đã được sửa đổi, bổ sung tại Điều
28a Nghị định 18/2021/NĐ-CP ngày
11/3/2021 (có hiệu lực thi hành kể từ ngày 25/4/2021)..
18. Kiến
nghị số 55
Trong khi cơ quan hải quan
thu thuế GTGT ở khâu nhập khẩu như trên, khi doanh nghiệp kê khai và xin hoàn
thuế GTGT giai đoạn đầu tư với cục thuế địa phương, các cơ quan thuế địa phương
lại cho rằng theo giấy phép doanh nghiệp là doanh nghiệp chế xuất nên không thuộc
đối tượng nộp thuế GTGT, nên không có cơ sở để hoàn thuế GTGT cho doanh nghiệp.
Việc xử lý không nhất quán của
cơ quan hải quan và cơ quan thuế như trên gây nhiều bức xúc, khó khăn cho doanh
nghiệp, làm ảnh hưởng đến môi trường đầu tư của Việt Nam.
Tại công văn số 5476/BTC-CST
ngày 07 tháng 5 năm 2020, trả lời Diễn đàn doanh nghiệp Việt Nam về đề nghị
hoàn thuế GTGT phát sinh trước khi được cơ quan hải quan xác nhận đáp ứng các
điều kiện để được hưởng cơ chế DNCX, Bộ Tài chính đã trả lời theo hướng DNCX
không được hoàn thuế do không thuộc đối tượng nộp thuế GTGT mà Bộ Tài chính lại
không xem xét theo tinh thần của Nghị định 82 (doanh nghiệp chỉ được hưởng cơ
chế DNCX khi có xác nhận của cơ quan hải quan). Do các vướng mắc nêu trên,
chúng tôi thấy trả lời này là không phù hợp.
Vì vậy, trong thời gian chưa
sửa đổi Nghị định 82, đế thống nhất cách xử lý giữa các cơ quan nhà nước, với
các doanh nghiệp chế xuất đã phải nộp thuế GTGT khi mua, nhập khẩu hàng hóa, dịch
vụ trước khi được hải quan xác nhận đáp ứng các điều kiện để được hưởng cơ chế
DNCX, đề nghị Bộ Tài chính hướng dẫn cho phép các doanh nghiệp được kê khai thuế
GTGT đầu vào phát sinh trong giai đoạn đầu tư trên Tờ khai thuế GTGT dành cho dự
án đầgu tư Mẫu số 02/GTGT và được hoàn thuế GTGT cho giai đoạn đầu tư theo quy
định hiện hành. Điều này là hết sức cần thiết để đảm bảo quyền và lợi ích chính
đáng của doanh nghiệp và nhà đầu tư.
Nội
dung trả lời:
Căn cứ quy định tại Điều 4 và Điều 13
Luật thuế giá trị gia tăng số13/2008/QH12 ngày 03/6/2008 của Quốc hội quy định
về thuế giá trị gia tăng
Căn cứ quy định tại điều 4 Luật thuế
xuất nhập khẩu số 107/2016/QH13 ngày 6/4/2016 quy định về khu phi thuế quan;
Căn cứ quy định tại khoản 1 Điều 30 của
Nghị định số 82/2018/NĐ-CP ngày 22/5/2018 của Chính phủ quy định về quản lý khu
công nghiệp, khu kinh tế;
Căn cứ quy định tại khoản 10 Điều 1
Nghị định số 18/2021/NĐ-CP ngày 11/3/2021 sửa đổi, bổ sung một số Điều của Nghị
định 134/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ quy định chi tiết một số Điều
và biện pháp thi hành Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu về bổ sung Điều 28a
Điều kiện kiểm tra, giám sát hải quan và áp dụng chính sách thuế đối với doanh
nghiệp chế xuất là khu phi thuế quan;
Căn cứ quy định tại Điều 2 và Điều 9
Nghị định số 209/2013/NĐ-CP ngày 18/12/2013 của Chính phủ quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều Luật Thuế giá trị gia tăng quy định về người nộp
thuế và khấu trừ thuế giá trị gia tăng đầu vào.
Căn cứ các quy định nêu trên thì:
Doanh nghiệp chế xuất không phải là
người nộp thuế GTGT theo quy định của pháp luật về thuế giá trị gia tăng.
Về điều kiện kiểm tra, giám sát hải
quan và áp dụng chính sách thuế đối với doanh nghiệp chế xuất, Chính phủ đã ban
hành Nghị định số 18/2021/NĐ-CP ngày 11/3/2021 sửa đổi, bổ sung một số Điều của
Nghị định số 134/2016/NĐ-CP ngày 01/9/2016 của Chính phủ.
Đề nghị doanh nghiệp liên hệ với cơ
quan quản lý thuế trực tiếp để được hướng dẫn thực hiện.
19. Kiến
nghị số 57, 58, 59 và 65
* Kiến nghị
số 57:
Nhóm công
tác Thuế & Hải quan cho rằng quy định tại Khoản 7, Điều 41 dự thảo Nghị định
hướng dẫn luật quản lý thuế số 38/2019/QH14 không phù hợp với thông lệ quốc tế
và quy định hiện hành về APA của các quốc gia khác. Hầu hết các quốc gia đều
quy định thời điểm có hiệu lực của APA là từ năm nộp hồ sơ xin áp dụng APA. Nhiều
nước thống nhất với khuyến nghị và phương án hành động do OECD đề xuất như công
nhận thời hạn hiệu lực của APA theo thời hạn người nộp thuế đề xuất trong hồ
sơ, cho phép thời hạn APA được mở rộng sang các năm tài chính đã qua (hồi tố).
Tuy nhiên,
theo Khoản 7, Điều 41 dự thảo Nghị định thì giai đoạn lập hồ sơ và đàm phán APA
đều không được tính là thời điểm có hiệu lực của APA. Cụ thể, sẽ có sự khác biệt
về giai đoạn có hiệu lực của APA giữa Việt Nam với các quốc gia đối tác trong
thỏa thuận APA (Ví dụ: Nhật Bản, Hàn Quốc) khiến cho việc đàm phán trở nên khó
khăn và kết quả có thể làm cho việc đàm phán APA trở nên không khả thi.
Nhóm công
tác Thuế & Hải quan đề xuất ý kiến thời điểm hiệu lực của APA theo hai
phương án:
- Phương án 1: Được tính từ
năm nộp hồ sơ xin áp dụng APA của người nộp thuế và mở rộng giai đoạn áp dụng đối
với ít nhất năm (05) năm tài chính trước đó.
- Phương án 2: Được tính từ
năm nộp hồ sơ xin áp dụng APA của người nộp thuế
Nhóm công tác Thuế & Hải
quan cho rằng việc sửa đổi điều khoản này tại Dự thảo theo các phương án nêu
trên sẽ sẽ tạo ra cơ môi trường đầu tư thực sự cạnh tranh với các nước trong
khu vực và tránh gây ra các tranh chấp quốc tế và phù hợp với khuyến nghị của
OECD trong chương trình hành động số 14 của BEPS.
* Kiến nghị số 58:
- Quy định của Việt Nam về thời gian có hiệu lực của APA
không phù hợp với quy định về APA ở các quốc gia khác và có thể dẫn đến tình trạng
đánh thuế hai lần đối với các doanh nghiệp nước ngoài tại Việt Nam. Điều này
mâu thuẫn với các Hiệp định tránh đánh thuế hai lần (“DTAA”) mà Việt Nam đã ký
với các nước khác.
- Quy định của Việt Nam về
thời gian APA có hiệu lực là không phù hợp với thông lệ quốc tế mà OECD khuyến
nghị và sẽ ảnh hưởng tiêu cực đến môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam.
- Việc xử lý hồ sơ nộp trước
ngày Nghị định này có hiệu lực còn thiếu rõ ràng.
Hiệp hội doanh nghiệp Ấn Độ hy vọng dự thảo Nghị định sẽ được xem xét kỹ lưỡng
với mục tiêu nâng cao hiệu quả của môi trường pháp lý, góp phần củng cố niềm
tin của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Hiệp hội doanh nghiệp Ấn Độ
đề nghị bổ sung một điều khoản riêng hướng dẫn xử lý các hồ sơ đã nộp trước
ngày Luật Quản lý thuế có hiệu lực vào dự thảo Nghị định nhằm củng cố niềm tin
của nhà đầu tư vào sự ổn định và minh bạch của pháp luật Việt Nam.
* Kiến nghị
số 59:
Trong khi mức thuế suất 20%
của Việt Nam là cạnh tranh, các số liệu cho thấy việc khai và nộp thuế ở Việt
Nam vẫn còn quá khó khăn so với các nước láng giềng. Quá nhiều các công ty đang
chịu những đối xử không công bằng và thiếu minh bạch về việc đánh giá mức thuế,
tiền phạt và tiền lãi. Các nhà đầu tư cần thấy các thủ tục kiểm toán và thuế
quan có thể dự đoán được và nhất quán với tiêu chuẩn toàn cầu, đồng thời ngăn
chặn các phán quyết có hiệu lực hồi tố. Sau nhiều năm, chúng ta vẫn thấy rằng
các tiêu chuẩn kế toán của Việt Nam chưa tiệm cận với các tiêu chuẩn toàn cầu,
chúng tôi cũng hy vọng được nhìn thấy những sự tiến bộ đối với Thỏa Thuận Trước
Về Phương Pháp Xác Định Giá Tính Thuế (APA) nhằm tạo ra sự ổn định và khả năng
dự đoán cần thiết để tích hợp vào chuỗi cung ứng toàn cầu. Sự tiến bộ trong các
lĩnh vực thuế sẽ giúp cải thiện các điều kiện kinh doanh nhằm tăng cường sức mạnh
cho khối tư nhân, đảm bảo sự phát triển về kinh tế và xã hội, thu hút thêm đầu
tư và thúc đẩy sự thịnh vượng tại Việt Nam.
* Kiến nghị
số 65:
Do Hệ thống xác nhận trước
trong đó Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và các cơ quan chức năng của nước
khác trong đó có Nhật Bản thương lượng với nhau để thống nhất về phạm vi chưa
đi vào hoạt động, nên đã làm tăng rủi ro về mặt quản lý của doanh nghiệp Nhật Bản
khi tính thuế định giá chuyển nhượng.
Để giảm thiểu rủi ro khi
tính thuế định giá chuyển nhượng, Chính phủ Việt Nam đã ban hành Hệ thống xác
nhận trước trong đó Cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam và các cơ quan chức năng
của nước khác trong đó có Nhật Bản thương lượng với nhau để thống nhất về phạm
vi đối tượng, nhưng vẫn chưa quyết định người ký tên cuối cùng ở phía Việt Nam
nên Hệ thống này vẫn chưa đi vào hoạt động.
Nội
dung trả lời:
Tại Luật
Quản lý thuế số 38/2019/QH14 ngày 13/6/2019 của Quốc hội và Nghị định Nghị định
số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 quy định chi tiết một số Điều của Luật Quản
lý thuế đã có hướng dẫn về việc thực hiện cơ chế APA tại Việt Nam. Cụ thể, định
nghĩa cơ chế APA và thời điểm có hiệu lực của APA được quy định tại khoản 16 Điều
3 Luật Quản lý thuế; nguyên tắc khai thuế đối với cơ chế thỏa thuận trước về
phương pháp xác định giá tính thuế được quy định tại tại khoản 6 Điều 42 Luật
Quản lý thuế. Các nội dung quy trình, thủ tục, thẩm quyền thực hiện cơ chế này
được quy định chi tiết tại Điều 41 Nghị định số 126/2020/NĐ-CP.
Trên cơ sở
các nguyên tắc, quy định tại Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP
nêu trên, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư số 45/2021/TT-BTC ngày 21/6/2021 để
hướng dẫn việc áp dụng cơ chế APA được thực hiện theo đúng quy định tại Luật Quản
lý thuế, Nghị định số 126/2020/NĐ-CP và các văn bản hướng dẫn thi hành
20. Kiến
nghị số 61 và số 62
* Kiến nghị
số 61:
Việt Nam đã ban hành Chính
sách ưu đãi thuế đối với ngành công nghiệp hỗ trợ và công nghiệp công nghệ cao,
nhưng chưa quy định rõ tiêu chí để trở thành đối tượng được hưởng ưu đãi, và có
trường hợp giữa các bộ, ngành có cách hiểu khác nhau. Nếu bị truy thu thuế sau
khi bị thanh tra thuế thì ưu đãi thuế không còn là chính sách khuyến khích nữa,
mà là một rủi ro đối với doanh nghiệp.
Để tránh điều này, chúng tôi
mong chính phủ Việt Nam thực hiện các biện pháp để giúp sử dụng hiệu quả hơn
các chính sách ưu đãi thuế hiện tại bằng cách ban hành văn bản hướng dẫn giúp
làm rõ các quy định hiện hành.
* Kiến nghị
số 62:
Tại Việt Nam, đã ban hành
chính sách ưu đãi thuế dành cho doanh nghiệp có giấy phép kinh doanh lĩnh vực
công nghệ cao nhằm thu hút các Cơ sở sản xuất sử dụng công nghệ tiên tiến. Tuy
nhiên, đối tượng xin cấp giấy phép kinh doanh lĩnh vực công nghệ cao này chỉ áp
dụng cho các công nghệ và sản phẩm đang được xem xét tại thời điểm xin cấp giấy
phép, không bao gồm các công nghệ và sản phẩm mới. Do đó, chính sách này không
mang tính khuyến khích cao cho các doanh nghiệp ứng dụng công nghệ và sản phẩm
tiên tiến mới.
Đặc biệt, chu kỳ vòng đời của
các sản phẩm và công nghệ tiên tiến thường rất ngắn, có nhiều trường hợp ví dụ
như một chiếc điện thoại thông minh chẳng hạn, cùng một mẫu máy sau 4-5 năm có
thể phải sử dụng công nghệ hoàn toàn khác. Chính vì vậy, chúng tôi hy vọng
chính phủ sẽ xây dựng một chính sách khuyến khích đổi mới công nghệ và sản phẩm
thông qua việc cho phép kéo dài thời hạn tái thẩm định, miễn trừ giấy phép kinh
doanh lĩnh vực công nghệ cao.
Nội
dung trả lời:
Luật thuế TNDN hiện hành quy
định về đối tượng, tiêu chí và mức ưu đãi thuế đối với lĩnh vực công nghệ hỗ trợ,
công nghệ cao, cụ thể:
- Áp dụng thuế suất 10%
trong thời gian 15, miễn thuế 04 năm, giảm 50% số thuế phải nộp trong 09 năm tiếp
theo đối với:
+ Thu nhập của doanh nghiệp
từ thực hiện dự án đầu tư mới, bao gồm: nghiên cứu khoa học và phát triển công
nghệ; ứng dụng công nghệ cao thuộc danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư
phát triển theo quy định của Luật công nghệ cao; ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo
doanh nghiệp công nghệ cao; đầu tư mạo hiểm cho phát triển công nghệ cao thuộc
danh mục công nghệ cao được ưu tiên đầu tư phát triển theo quy định của Luật
công nghệ cao; đầu tư xây dựng - kinh doanh cơ sở ươm tạo công nghệ cao, ươm tạo
doanh nghiệp công nghệ cao;
+ Thu nhập của doanh nghiệp
công nghệ cao, doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao theo quy định của
Luật công nghệ cao;
+ Thu nhập của doanh nghiệp
từ thực hiện dự án đầu tư mới sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển đáp ứng một trong các tiêu chí sau: Sản phẩm
công nghiệp hỗ trợ cho công nghệ cao theo quy định của Luật công nghệ cao; Sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ cho sản xuất sản phẩm các ngành: dệt - may; da - giầy; điện
tử - tin học; sản xuất lắp ráp ô tô; cơ khí chế tạo mà các sản phẩm này
tính đến ngày 01 tháng 01 năm 2015 trong nước chưa sản xuất được hoặc sản xuất
được nhưng phải đáp ứng được tiêu chuẩn kỹ thuật của Liên minh Châu Âu (EU) hoặc
tương đương.
- Ưu đãi thuế thu nhập doanh
nghiệp được áp dụng đối với thu nhập của doanh nghiệp từ thực hiện dự án sản xuất
sản phẩm công nghiệp hỗ trợ từ ngày 01 tháng 01 năm 2015 đáp ứng các Điều kiện
quy định tại Luật số 71/2014/QH13 ngày 26 tháng 11 năm 2014 và các văn bản hướng
dẫn thi hành, được cơ quan có thẩm quyền cấp Giấy xác nhận ưu đãi sản xuất sản
phẩm công nghiệp hỗ trợ. Trình tự, thủ tục xác nhận ưu đãi và hậu kiểm ưu đãi đối
với dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp hỗ trợ thuộc Danh Mục sản phẩm công
nghiệp hỗ trợ ưu tiên phát triển thực hiện theo quy định tại Thông tư số
55/2015/TT-BCT ngày 30/12/2015 của Bộ Công thương.
- Ưu đãi thuế TNDN đối với
thu nhập của dự án ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh
nghiệp Nhà nước ứng dụng công nghệ cao căn cứ vào giấy chứng nhận dự án ứng dụng
công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp Nhà nước ứng dụng công
nghệ cao do Bộ Khoa học Công nghệ cấp. Trình tự, thủ tục đăng ký, cấp giấy chứng
nhận được thực hiện theo quy định tại Thông tư số 32/2011/TT-BKHCN ngày
15/11/2011 của Bộ Khoa học Công nghệ ban hành.
Như vậy, việc áp dụng các ưu
đãi đối với dự án trong lĩnh vực công nghệ cao, lĩnh vực công nghệ hỗ trợ được
dựa trên các giấy chứng nhận dự án ứng dụng công nghệ cao, doanh nghiệp công
nghệ cao, doanh nghiệp Nhà nước ứng dụng công nghệ cao, dự án công nghệ hỗ trợ…
do các bên chuyên ngành cấp và đảm bảo phù hợp với Luật thuế TNDN hiện hành.
Theo đó, trường hợp phát sinh vướng mắc liên quan đến tiêu chí xác định dự án ứng
dụng công nghệ cao, doanh nghiệp công nghệ cao, doanh nghiệp Nhà nước ứng dụng
công nghệ cao hay dự án sản xuất sản phẩm thuộc Danh mục sản phẩm công nghiệp hỗ
trợ được ưu tiên phát triển, đề nghị dự án nêu kiến nghị cụ thể và gửi về các
cơ quan chuyên môn (Bộ Khoa học Công nghệ, Bộ Công thương) để được giải quyết.
21. Kiến
nghị số 63
Trong chính sách thuế định
giá chuyển nhượng, đối tượng là doanh nghiệp có nhiều giao dịch với bên liên
quan chẳng hạn như doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài bao gồm cả Nhật Bản, nhưng
trong phạm vi quy định đối tượng được miễn thuế lại đang đề xuất là tính từ Tứ
phân vị thứ nhất trở lên (top 75%) hoặc bách phân vị thứ 35 (top 65% trở
lên).Trong khi nhiều nước phát triển khác đang áp dụng Tứ phân vị thứ nhất thì
quy định này của Việt Nam khá là khắt khe, và tương đối bất lợi với doanh nghiệp
vì nó làm tăng khả năng đánh thuế hai lần một cách vô lý giữa hai nước.
Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản mong muốn
chính phủ vẫn giữ cách tính Tứ phân vị thứ nhất như hiện tại phù hợp với thông
lệ quốc tế.
Nội
dung trả lời:
Qua công tác quản lý thuế
cho thấy, khi lập Hồ sơ xác định giá giao dịch liên kết, đối tượng so sánh độc
lập lựa chọn trong khoảng rộng và khoảng giá trị độc lập chuẩn có biên độ lớn.
Từ dải biên độ lớn, doanh nghiệp xác định thuộc phạm vi của khoảng giá trị này
nên không điều chỉnh xác định lại giá giao dịch liên kết, ảnh hưởng tới việc
xác định nghĩa vụ thuế. Vì vậy, nhằm mục tiêu thu hẹp khoảng giá trị giao
dịch độc lập chuẩn, với mục tiêu về quản lý thuế, nên Bộ Tài chính
đề xuất thu hẹp khoảng giá trị giao dịch độc lập chuẩn (từ bách
phân vị 35 thay cho bách phân vị 25). Nội dung này, Bộ Tài chính đã thuyết
minh báo cáo giải trình khi xây dựng Nghị định số 132/2020/NĐ-CP.
22. Kiến
nghị số 64
Trong dự thảo sửa đổi nghị
định Chính phủ có đề xuất về trường hợp bắt buộc pháp nhân Việt Nam là công ty
con phải lập báo cáo lợi nhuận liên quốc gia, nhưng đây là một yêu cầu không thực
tế, và sẽ tạo nên gánh nặng và rủi ro quá sức đối với công ty con.
Do công ty con ít khi có
được thông tin về công ty mẹ và các công ty con ở các quốc gia khác, cho nên
quy định này làm tăng rủi ro không cần thiết cho doanh nghiệp khi đầu tư vào Việt
Nam và thành lập pháp nhân tại Việt Nam. Vì vậy chúng tôi mong chính phủ xóa bỏ
quy định này.
Nội
dung trả lời:
Tại Khoản 5 Điều 18 Nghị
định số 132/2020/NĐ-CP quy định về quản
lý thuế đối với doanh nghiệp có phát sinh giao dịch liên kết quy định:
“Điều
18. Quyền và nghĩa vụ của người nộp thuế trong kê khai, xác định giá giao dịch
liên kết
....
5. Người nộp thuế có nghĩa vụ liên quan đến Báo cáo lợi nhuận liên quốc
gia:
a) Trường hợp người nộp thuế là Công ty mẹ tối cao tại Việt
Nam có doanh thu hợp nhất toàn cầu trong kỳ tính thuế từ mười tám nghìn tỷ đồng
trở lên, có trách nhiệm lập Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia tại Hồ sơ xác định
giá giao dịch liên kết theo Phụ lục IV ban hành kèm theo Nghị định này. Thời hạn nộp Báo cáo cho Cơ quan
thuế chậm nhất là 12 tháng sau ngày kết thúc năm tài chính của Công ty mẹ tối
cao.
b) Người nộp thuế tại
Việt Nam có công ty mẹ tối cao tại nước ngoài mà công ty mẹ tối cao có nghĩa vụ
lập Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia theo quy định của nước cư trú phải nộp cho
Cơ quan thuế trong các trường hợp sau:
- Quốc gia, vùng lãnh
thổ nơi Công ty mẹ tối cao là đối tượng cư trú có Thỏa thuận quốc tế về thuế
với Việt Nam nhưng không có Thỏa thuận của Nhà chức trách có thẩm quyền tại
thời điểm đến hạn nộp Báo cáo theo quy định tại điểm a khoản này.
- Quốc gia, vùng lãnh
thổ nước ngoài nơi Công ty mẹ tối cao là đối tượng cư trú có Thỏa thuận giữa
Nhà chức trách có thẩm quyền với Việt Nam nhưng đã đình chỉ cơ chế trao đổi
thông tin tự động hoặc không tự động cung cấp được cho Việt Nam Báo cáo lợi
nhuận liên quốc gia của tập đoàn là đối tượng cư trú tại các quốc gia, vùng
lãnh thổ nước ngoài đó.
- Trường hợp tập đoàn
đa quốc gia có nhiều hơn 01 người nộp thuế tại Việt Nam và Công ty mẹ tối cao
tại nước ngoài có văn bản thông báo chỉ định một trong những người nộp thuế tại
Việt Nam nộp Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia thì người nộp thuế được chỉ định
có nghĩa vụ nộp Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia cho Cơ quan thuế. Người nộp
thuế có nghĩa vụ nộp văn bản thông báo chỉ định của Công ty mẹ tối cao cho Cơ
quan thuế trước hoặc vào ngày kết thúc năm tài chính của Công ty mẹ tối cao của
người nộp thuế.
c) Quy định tại điểm
b khoản này không áp dụng trong trường hợp Công ty mẹ tối cao của người nộp
thuế tại Việt Nam chỉ định một tổ chức thay mặt nộp Báo cáo lợi nhuận liên quốc
gia cho Cơ quan thuế nước sở tại trước hoặc vào ngày quy định tại điểm a khoản
này và đáp ứng các điều kiện sau:
- Quốc gia, vùng lãnh
thổ nơi tổ chức thay mặt nộp báo cáo là đối tượng cư trú có quy định yêu cầu
nộp Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia.
- Quốc gia, vùng lãnh
thổ nơi tổ chức thay mặt nộp báo cáo là đối tượng cư trú có Thỏa thuận giữa Nhà
chức trách có thẩm quyền với Việt Nam là một bên ký kết tại thời điểm đến hạn
nộp Báo cáo theo quy định tại điểm a khoản này.
- Quốc gia, vùng lãnh
thổ nơi tổ chức thay mặt nộp báo cáo là đối tượng cư trú có Thỏa thuận giữa Nhà
chức trách có thẩm quyền với Việt Nam, không đình chỉ cơ chế trao đổi thông tin
tự động và cung cấp được cho Việt Nam Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia của tập
đoàn là đối tượng cư trú tại quốc gia, vùng lãnh thổ nước ngoài đó.
- Tổ chức thay mặt
nộp báo cáo có văn bản thông báo được chỉ định nộp Báo cáo lợi nhuận liên quốc
gia cho Cơ quan thuế nước cư trú vào trước hoặc vào ngày kết thúc năm tài chính
của Công ty mẹ tối cao của tập đoàn.
- Văn bản thông báo
chỉ định tổ chức thay mặt nộp báo cáo được người nộp thuế tại Việt Nam cung cấp
cho Cơ quan thuế Việt Nam theo quy định tại điểm b khoản này.
- Người nộp thuế tại
Việt Nam có văn bản thông báo cho Cơ quan thuế Việt Nam về tên, mã số thuế và
nước cư trú của Công ty mẹ tối cao hoặc tổ chức thay mặt nộp báo cáo trước hoặc
vào ngày cuối cùng của năm tài chính của tập đoàn.
d) Trường hợp người
nộp thuế có Công ty mẹ tối cao tại nước ngoài phải nộp Báo cáo lợi nhuận liên
quốc gia theo quy định của nước cư trú, Cơ quan thuế thực hiện trao đổi thông
tin tự động theo cam kết tại các Thỏa thuận quốc tế về thuế của Việt Nam.
đ) Trường hợp người
nộp thuế có Công ty mẹ tối cao không bắt buộc phải nộp Báo cáo lợi nhuận liên
quốc gia theo quy định của nước cư trú thì thực hiện theo điều ước quốc tế về
thuế.”
Căn cứ quy định nêu trên thì
việc lập Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia là nghĩa vụ của Công ty mẹ tối cao (nếu
thuộc trường hợp phải lập theo quy định của nước cư trú). Như vậy, Công ty con
tại Việt Nam không phải lập Báo cáo lợi nhuận liên quốc gia mà chỉ phải
nộp cho Cơ quan thuế trong các trường hợp theo quy định tại điểm b, khoản 5, Điều
18 Nghị định 132/2020/NĐ-CP.
23. Kiến nghị số 66
Cục Quản lý, giám sát bảo hiểm (“Cục QLGSBH”) đã áp dụng
quan điểm rằng không nên công nhận một số hoạt động đại lý lâu nay trong mô
hình đại lý đa tầng là các hoạt động đại lý trong phạm vi được pháp luật công
nhận. Cách giải thích luật làm thu hẹp phạm vi hoạt động cho phép của doanh
nghiệp bảo hiểm và khả năng khấu trừ các chi phí liên quan như trên không phù hợp
với thông lệ thị trường được các doanh nghiệp bảo hiểm chủ chốt tại Việt Nam và
thị trường quốc tế đề ra, và cũng không phù hợp với sự chấp nhận lâu nay của
các cơ quan thuế Việt Nam và chính Cục QLGSBH.
Các cơ quan quản lý nên nhìn nhận cởi mở hơn để công nhận
mô hình này và áp dụng pháp luật một cách nhất quán để chấp nhận mọi chi phí
liên quan là chi phí hợp lý và hợp lệ cho mục đích tính thuế thu nhập doanh
nghiệp.
Nội dung trả lời:
Các quy định về chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm (DNBH)
đã được quy định rõ ràng, đầy đủ tại Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng
dẫn thi hành, được áp dụng ổn định trong nhiều năm. Ví dụ như sau:
- Hoạt động đại lý bảo hiểm được quy định tại Điều 85 Luật
Kinh doanh bảo hiểm, cụ thể: Đại lý bảo hiểm có thể được doanh nghiệp bảo hiểm ủy
quyền tiến hành các hoạt động sau đây: Giới thiệu, chào bán bảo hiểm; Thu xếp
việc giao kết hợp đồng bảo hiểm; Thu phí bảo hiểm; Thực hiện các hoạt động khác
có liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
- Các khoản chi cho đại lý được quy định tại Điều 69 Nghị
định số 73/2016/NĐ-CP, được sửa đổi, bổ sung tại khoản 5 Điều 1 nghị định
80/2019/NĐ-CP, cụ thể: Chi quản lý đại lý bảo hiểm gồm: Chi đào tạo, ban đầu và thi cấp chứng chỉ đại lý, chi đào tạo nâng
cao kiến thức cho đại lý, chi tuyển dụng đại lý, chi khen thưởng đại lý và chi
hỗ trợ đại lý.
- Nguyên tắc xác định chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm
được hướng dẫn tại Điều 22 Thông tư số 50/2017/TT-BTC, cụ thể: Chi phí của doanh nghiệp bảo hiểm, chi nhánh
nước ngoài là các khoản phải chi, phải trích phát sinh trong kỳ theo quy định tại
Điều 69 Nghị định số 73/2016/NĐ-CP. Các khoản chi phải đúng theo quy định của
pháp luật, đảm bảo có đầy đủ hóa đơn, chứng từ hoặc bằng chứng chứng minh.
- Các khoản chi được trừ khi xác định thu nhập chịu thuế
TNDN được quy định tại khoản 1 Điều 4 Thông tư 96/2015/TT-BTC, cụ thể: “Trừ
các khoản chi không được trừ nêu tại Khoản 2 Điều này, doanh nghiệp được
trừ mọi khoản chi nếu đáp ứng đủ các điều kiện sau: a) Khoản chi thực
tế phát sinh liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp. b)
Khoản chi có đủ hoá đơn, chứng từ hợp pháp theo quy định của pháp luật.”
- Các khoản chi không được trừ khi xác định thu nhập chịu
thuế thu nhập doanh nghiệp được quy định tại điểm
2.30 và điểm 2.35 khoản 2 Điều 4 Thông tư số 96/2015/TT-BTC, cụ thể: “Các khoản
chi không tương ứng với doanh thu tính thuế.
Các khoản chi của hoạt động kinh doanh bảo hiểm, kinh doanh xổ số, kinh
doanh chứng khoán và một số hoạt động kinh doanh đặc thù khác không thực hiện
đúng theo văn bản hướng dẫn riêng của Bộ Tài chính”
Đối với quỹ chủ hợp đồng bảo hiểm, là quỹ được hình thành
từ nguồn đóng góp của người tham gia bảo hiểm, các khoản chi phí (bao gồm chi
phí cho đại lý bảo hiểm) được quy định chặt chẽ nhằm bảo vệ tối đa quyền lợi của
người tham gia bảo hiểm, cân bằng với quyền lợi của người tham gia bảo hiểm,
cân bằng với quyền lợi của chủ đầu tư, phù hợp với thông lệ quốc tế. Doanh nghiệp
hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm cần tuân thủ quy định pháp luật và
các khoản chi phí phải đảm bảo hợp lý, hợp lệ.
Trong thời gian qua cũng như thời gian tới, Bộ Tài chính
(Cục QLGSBH) đã và sẽ tiếp tục tăng cường công tác thanh tra, xử lý đối với các
hành vi sai phạm để bảo đảm quy định của pháp luật được thực hiện một cách
nghiêm túc, góp phần vào sự phát triển chung của thị trường bảo hiểm. Đối với
các cuộc thanh tra đã thực hiện, các DNBH đều nhất trí và nghiêm túc thực hiện
các kết luận thanh tra và quy định pháp luật.
Trường hợp DNBH muốn áp dụng mô hình kinh doanh, kênh
phân phối mới dẫn đến phải sử dụng các khoản chi trừ quỹ chủ hợp đồng bảo hiểm,
có khả năng ảnh hưởng đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm thì các doanh
nghiệp bảo hiểm cần nghiên cứu, đánh giá tác động và đề xuất với cơ quan quản
lý để có căn cứ xem xét.
Hiện nay, Bộ Tài Chính đang trong quá trình xây dựng dự
thảo Luật kinh doanh bảo hiểm (sửa đổi) thay thế cho các Luật kinh doanh bảo hiểm
hiện hành, dự kiến trình Quốc hội cho ý kiến vào năm 2021 và có hiệu lực năm
2023.
24. Kiến nghị số 67 và số 68
* Kiến nghị số 67:
(1) Ngành nghề không quy định hạn chế sở hữu nước ngoài: Đối
với ngành nghề mà điều ước quốc tế/ pháp luật không hạn chế sở hữu nước ngoài,
đề xuất áp dụng tỷ lệ sở hữu nước ngoài
100%, so với tỉ lệ hiện tại là 49%. Theo
đó, khoản 1 Điều 139 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định:
“1. Tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối
đa tại công ty đại chúng được xác định như sau:
a) Công ty đại chúng
hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh mà điều ước quốc tế có Việt Nam
là thành viên quy định về sở hữu nước ngoài thì thực hiện theo điều ước quốc tế;
b) Công ty đại chúng
hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh mà pháp luật liên quan có quy định
về sở hữu nước ngoài thì thực hiện theo quy định tại pháp luật đó;
c) Công ty đại chúng
hoạt động trong ngành, nghề đầu tư kinh doanh thuộc danh mục ngành, nghề hạn chế
tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài thì thực hiện theo quy định về
sở hữu nước ngoài tại danh mục. Trường hợp ngành, nghề tiếp cận thị trường có
điều kiện tại danh mục không quy định cụ thể điều kiện tỷ lệ sở hữu vốn điều lệ
của nhà đầu tư nước ngoài trong tổ chức kinh tế thì tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối
đa tại công ty là 50% vốn điều lệ;
d) Công ty đại chúng
không thuộc các trường hợp quy định tại điểm a, b, c khoản 1 Điều này, tỷ lệ sở
hữu nước ngoài là không hạn chế;
đ) Trường hợp công ty
đại chúng hoạt động đa ngành, nghề, có quy định khác nhau về tỷ lệ sở hữu nước
ngoài, tỷ lệ sở hữu nước ngoài không vượt quá mức thấp nhất trong các ngành,
nghề có quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài;
e) Trường hợp công ty
đại chúng quyết định tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa thấp hơn tỷ lệ quy định tại
các điểm a, b, c, d, đ khoản 1 Điều này thì tỷ lệ cụ thể phải được Đại hội đồng
cổ đông thông qua và quy định tại Điều lệ công ty”.
(2) Quyền quyết định tỷ lệ sở
hữu nước ngoài của công ty: Đề xuất các công ty được phép quyết định/giới hạn tỷ
lệ sở hữu nước ngoài tối đa trong Điều lệ.
(3) Điều kiện một tổ chức
kinh tế bị coi là nhà đầu tư nước ngoài: Một tổ chức kinh tế chỉ bị đối xử như
nhà đầu tư nước ngoài khi (i) có trên 50% vốn nước ngoài trong ít nhất 180 ngày
trong 01 năm và (ii) có 35% vốn điều lệ thuộc sở hữu của 01 nhà đầu tư nước
ngoài và người có liên quan.
(4) Ngoại trừ đối với công ty
chứng khoán và công ty quản lý quỹ: Công ty chứng khoán khi cung cấp dịch vụ chứng
khoán và công ty quản lý quỹ khi quản lý danh mục đầu tư không bị xem là “nhà đầu
tư nước ngoài”, bất kể công ty chứng khoán hoặc công ty quản lý quỹ đó có tỷ lệ
sở hữu nước ngoài lớn hơn hoặc nhỏ hơn 50%.
(5) Chứng chỉ lưu ký không có
quyền biểu quyết (“NVDR”): Đề xuất ban hành quy định để triển khai NVDR.
(6) Đẩy mạnh cổ phần hoá
doanh nghiệp nhà nước: Cần đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước trong những
lĩnh vực, ngành nghề không cần Nhà nước kiểm soát đặc biệt, để tăng số lượng cổ
phần lưu hành trên thị trường.
(7) Tăng tỷ lệ sở hữu nước
ngoài trong ngân hàng: Cho phép nâng tỷ lệ sở hữu nước ngoài lên mức mới (ví dụ:
40-49%), so với mức hiện tại là 30%.
(8) Mô hình thanh toán giao dịch
chứng khoán mới thông qua Đối tác Bù trừ Trung tâm (Central Clearing
Counterparty – CCP):
a. Ký quỹ: Bỏ yêu cầu ký quỹ
đối với thành viên bù trừ; việc ký quỹ của nhà đầu tư cần loại bỏ hoặc theo thoả
thuận riêng giữa thành viên bù trừ và nhà đầu tư (mỗi thành viên bù trừ có thể
áp dụng mức ký quỹ riêng cho từng nhà đầu tư).
b. Mô hình:
(i) Ngân hàng lưu ký (“NHLK”)
làm thành viên bù trừ: Ngân hàng Nhà nước sửa đổi quy định cho phép ngân hàng
lưu ký thực hiện chức năng bù trừ & thanh toán giao dịch chứng khoán, cho
nhà đầu tư nước ngoài vay tiền và trích lập dự phòng rủi ro.
(ii) Ngân hàng lưu ký không làm thành viên bù trừ: Tiền
ký quỹ, tiền và chứng khoán của nhà đầu tư phải được giao dịch theo cách thức:
(A) tài khoản của nhà đầu tư mở tại NHLK tài khoản tổng
của CCP (nhà đầu tư chuyển và nhận tiền - chứng khoán trực tiếp với CCP, không
qua TVBT); hoặc
(B) tài khoản của nhà đầu tư mở tại NHLK tài khoản của
nhà đầu tư mở tại TVBT tài khoản tổng của CCP (nhà đầu tư chuyển và nhận tiền/
chứng khoán qua TVBT nhưng phải thực hiện trong ngày giao dịch).
c. Thời hạn triển khai/ chuyển
tiếp: Chỉ triển khai CCP khi nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức cung cấp dịch vụ của
họ và các thành viên thị trường đã sẵn sàng, ít nhất 06 tháng kể từ khi Ủy ban
Chứng khoán Nhà nước (“UBCKNN”)/ Trung tâm Lưu ký Chứng khoán (“TTLKCK”) ban
hành quy định chính thức về CCP.
(9) ETF: Miễn trừ công bố
thông tin của ETFs cần được mở rộng cho (i) hoạt động tái cơ cấu danh mục theo
định kỳ thay đổi của chỉ số tham chiếu (rebalancing) của quỹ ETF và (ii) người
liên quan của người nội bộ của quỹ ETF.
(10) Người có liên quan: Kiến
nghị làm rõ khái niệm “kiểm soát”.
(11) Trái phiếu:
- Đơn giản hoá thủ tục phát hành trái phiếu riêng lẻ
của công ty đại chúng và công ty chưa đại chúng.
- Rút ngắn thời gian cấp phép và niêm yết trái phiếu
phát hành ra công chúng.
- Xây dựng hệ thống giao dịch trái phiếu phát hành
riêng lẻ dành riêng cho nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp.
- Huỷ bỏ hạn chế tỷ trọng đầu tư 10% vào trái phiếu
đối với quỹ mở.
- Huỷ bỏ phân biệt việc đầu tư vào trái phiếu phát hành
ra công chúng được niêm yết và trái phiếu phát hành riêng lẻ được niêm yết đối
với quỹ mở.
(12) Nhà đầu tư chứng khoán
chuyên nghiệp: Đề xuất mở rộng khái niệm “nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp”,
để tạo điều kiện cho các công ty holding/ tổ chức mục đích đặc thù (Special
Purpose Vehicles – SPVs), các nhà đầu tư chứng khoán theo quy định pháp luật nước
ngoài được xem là “nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp” theo pháp luật Việt
Nam.
(13) Tài khoản tổng (omnibus
account): Đề nghị cho phép nhà đầu tư nước ngoài được mở tài khoản tổng và các
tài khoản phụ dưới tài khoản tổng cho các danh mục đầu tư riêng biệt.
(14) Đại lý ký danh (omnibus agent) cho quỹ mở: Đề
nghị cho phép đại lý ký danh thực hiện giao dịch tiền netting và tự thực hiện
việc chuyển trả cho nhà đầu tư thay vì phải thực hiện từng giao dịch thanh toán
cho nhà đầu tư qua tài khoản tại ngân hàng giám sát của quỹ.
(15) Tổ chức lưu ký uỷ thác: Đề nghị làm rõ cơ chế
hoạt động của “tổ chức lưu ký uỷ thác” – tổ chức trung gian thực hiện lưu ký chứng
khoán cho các nhà đầu tư theo hợp đồng ủy thác, gồm trung tâm lưu ký chứng
khoán nước ngoài, ngân hàng lưu ký toàn cầu, công ty quản lý quỹ, tổ chức khác
được UBCKNN chấp thuận:
- Cấp 02 mã số giao dịch chứng khoán gồm 01 cho tổ
chức lưu ký uỷ thác và 01 cho nhà đầu tư nước ngoài là khách hàng của tổ chức
lưu ký uỷ thác.
- Các nhà đầu tư nước ngoài có thể chuyển đổi tài
khoản tiền và chứng khoán đang mở tại NHLK sang hệ thống tài khoản của tổ chức
lưu ký uỷ thác (khi có nhu cầu).
- Chỉ cho phép mở tài khoản giao dịch chứng khoán đứng
tên tổ chức lưu ký uỷ thác.
- Quy định rõ nghĩa vụ công bố thông tin, tỷ lệ sở hữu
nước ngoài, quyền biểu quyết, v.v. khi nhà đầu tư nước ngoài chọn lưu ký chứng
khoán tại tổ chức lưu ký uỷ thác.
(16) Giao dịch trong ngày và
giao dịch chứng khoán chờ về: Đề xuất quy định rõ giao dịch trong ngày và giao
dịch chứng khoán chờ về, đặc biệt cho phép nhà đầu tư nước ngoài thực hiệc các
giao dịch này.
(17) Sử dụng thông tin nội bộ trong quá trình thẩm
định công ty: Đề xuất quy định ngoại trừ cho việc nhà đầu tư giao dịch sau khi
có được thông tin nội bộ từ quá trình thẩm định công ty, ví dụ như nhà đầu tư
đã ký thoả thuận bảo mật thông tin, nhà đầu tư đã bị hạn chế giao dịch trong một
khoảng thời gian, thông tin cung cấp cho nhà đầu tư đã được công bố rộng rãi.
18) Đơn vị tư vấn phát hành
chứng khoán: Đề xuất quy định công ty chứng khoán và công ty luật là đơn vị được
phép tư vấn phát hành chứng khoán.
(19) Điều kiện niêm yết trên Sở
giao dịch chứng khoán: Đề xuất xem xét lại quy định tại Luật Chứng khoán yêu cầu
công ty đại chúng phải giao dịch trên UPCOM tối thiểu 02 năm trước khi được
đăng ký niêm yết trên Sở Giao dịch chứng khoán.
(20) Niêm yết doanh nghiệp
FDI: Đề xuất hướng dẫn cụ thể về việc niêm yết các doanh nghiệp FDI.
* Kiến nghị số 68:
Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản mong chính phủ “Làm rõ
tiêu chí vận hành quy định giao dịch nội gián liên quan đến việc mua bán cổ phiếu
của công ty niêm yết”. Cụ thể là làm rõ tiêu chí vận hành quy định giao dịch nội
gián trong Thông tư hoặc các hình thức tài liệu chính thức khác
Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản cũng hy vọng rằng chính phủ
sẽ nới lỏng giới hạn đối với "Giới hạn tỷ lệ sở hữu vốn của nhà đầu tư nước
ngoài trong công ty niêm yết". Chúng tôi hy vọng rằng trong Nghị định mới
của chính phủ hiện đang soạn thảo sẽ nới lỏng hơn nữa tỷ lệ sở hữu vốn của nhà
đầu tư nước ngoài.
Hiệp hội doanh nghiệp Nhật Bản mong chính phủ xem xét lại
"Phương pháp định giá cổ phiếu và phương pháp chào bán cổ phiếu của công
ty nhà nước". Ví dụ, chúng tôi mong muốn chính phủ cải thiện tính minh bạch
về thủ tục hành chính bao gồm việc quy định rõ trong các văn bản pháp luật các
nguyên tắc, hình thức đấu thầu công khai, quy trình và yêu cầu trong việc Thẩm
định chi tiết doanh nghiệp.
Nội dung trả lời:
(1) Kiến nghị liên quan đến tỷ lệ sở hữu nước ngoài (SHNN)
trên thị trường chứng khoán (TTCK)
Về tỷ lệ SHNN tại công ty đại chúng: Thực hiện theo qyt định
tại Điều 139 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP ngày 31/12/2020 của Chính phủ quy định
chi tiết thi hành một số điều của Luật Chứng khoán (Nghị định số
155/2020/NĐ-CP), theo đó:
- Cho phép tỷ lệ SHNN tối đa đến 100% đối với ngành nghề
không bị hạn chế tỷ lệ SHNN
- Cho phép công ty đại chúng được phép quyết định/giới hạn
tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa theo Nghị quyết Đại hội đồng cổ đông và Điều lệ
công ty
Về ứng xử với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài:
Thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 143 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP, theo
đó tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài (bao gồm cả các công ty chứng
khoán) phải áp dụng điều kiện về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, trình tự, thủ tục đầu
tư trên thị trường chứng khoán như nhà đầu tư nước ngoài khi có nhà đầu tư nước
ngoài nắm giữ trên 50% vốn điều lệ.
(2) Chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (“NVDR”): Điều
140 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP đã quy định về “chứng chỉ lưu ký không có quyền
biểu quyết “. Tuy nhiên, việc triển khai sản phẩm NVDR cần thành lập được công
ty con của Sở giao dịch chứng khoán với vai trò là tổ chức phát hành. Do đó,
trên cơ sở thành lập được công ty con của SGDCK có chức năng phát hành NVDR, Bộ
Tài chính sẽ có quy định cụ thể để triển khai sản phẩm này.
(3) Đẩy mạnh cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước: Triển khai
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nghị quyết số 12-NQ/TW ngày
03/06/2017 của Hội nghị lần thứ 5 Ban chấp hành Trung ương khoá XII về tiếp tục
cơ cấu lại, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước; Nghị quyết
134/2020/QH14 ngày 17/11/2020 cả Quốc hội về tiếp tục thực hiện các nghị quyết
của Quốc hội về giám sát chuyên đề, chất vấn trong nhiệm kỳ khoá XIV và một số
nghị quyết trong nhiệm kỳ khoá XIII;
Thực hiện nhiệm vụ, giải pháp đẩy mạnh cơ cấu lại nền
kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, hiệu quả và sức
cạnh tranh; phát triển nền kinh tế số tại tiết 2.2 điểm 2 mục IV Phần thứ hai
Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm
năm 2016-2025 (Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII): “Tiếp tục thực
hiện sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước, tâp trung giữ vững những lĩnh vực then
chốt, thiết yếu’ những địa bàn quan trọng về quốc phòng, an ninh, những lĩnh vực
mà doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác không đầu tư… Đến năm 2025,
hoàn tất việc sắp xếp lại khối doanh nghiệp nhà nước;…”
Bộ Tài chính đang xây dựng Đề án: “Cơ cấu lại doanh nghiệp
nhà nươc (DNNN), trọng tâm là Tập đoàn kinh tế, Tổng công ty nhà nước giai đoạn
2021-2025” để báo cáo Thủ tướng Chính phủ, trong đó có các giải pháp để cổ phần
hoá DNNN, thoái vốn nhà nước tại doanh nghiệp cũng như đẩy mạnh việc thoái vốn
của DNNN đang đầu tư ngoài ngành, lĩnh vực kinh doanh chính; các doanh nghiệp
đã cổ phần hoá thực hiện nghiêm quy định về đăng ký lưu ký, đăng ký giao dịch,
đăng ký niêm yết trên thị trường chứng khoán.
Sau khi Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, Bộ Tài
chính, các Bộ, ngành và cơ quan đại diện chủ sở hữu sẽ phối hợp, triển khai thực
hiện các giải pháp đã đề ra, góp phần đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá DNNN
trong giai đoạn 2021-2025.
(4) Tăng tỷ lệ sở hữu nước ngoài trong ngân hàng: Nội dung
này thuộc phạm vi của Ngân hàng Nhà nước, đề nghị kiến nghị cụ thể từ VBF với
Ngân hàng Nhà nước để được giải quyết.
(5) Bù trừ thanh toán giao dịch chứng khoán theo cơ chế Đối tác
Bù trừ Trung tâm (CCP)
Ký quỹ: Các nội dung VBF đề cập hiện được quy định tại
chương IV Nghị định số 155/2020/NĐ-CP và Thông tư 119/2020/TT-BTC ngày
31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định hoạt động đăng ký, lưu ký, bù trừ
và thanh toán giao dịch chứng khoán. Theo đó:
- Về yêu cầu ký quỹ đối với thành viên bù trừ (TVBT): Điều
28 Thông tư số 119/2020/TT-BTC quy định: “Tỷ lệ ký quỹ bù trừ bằng tiền thực hiện
theo quy chế của Tổng công ty lưu ký và bù trừ” và “Việc xác định các loại ký
quỹ bù trừ,… tỷ lệ ký quỹ bù trừ, tỷ lệ ký quỹ bù trừ tối thiểu bằng tiền, việc
thực hiện các quyền liên quan đến chứng khoán ký quỹ bù trừ và các nội dung
liên quan khác thực hiện theo quy chế của VSD”. Theo thông lệ quốc tế, với cơ
chế CCP, mọi hoạt động thanh toán giao dịch chứng khoán đều thực hiện qua thành
biên bù trừ; đồng thời thành viên bù trừ chịu mọi trách nhiệm về thanh toán
giao dịch chứng khoán với CCP. Quy định
về tỷ lệ ký quỹ tối thiểu đảm bảo an toàn cho hệ thống thanh toán khi áp dụng
cơ chế CCP do Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam chịu trách nhiệm
cuối cùng đảm bảo thanh toán giao dịch chứng khoán của thành viên bù trừ thông
qua cơ chế ký quỹ và các biện pháp phòng ngừa rủi ro theo quy định pháp luật.
- Về yêu cầu ký quỹ đối với nhà đầu tư: Điều 157 Nghị định
số 155/2020/NĐ-CP quy định thành viên bù trừ có nghĩa vụ bảo đảm nhà đầu tư có
đủ tài sản ký quỹ bù trừ trước khi thự hiện giao dịch và đủ tiền, chứng khoán để
thanh toán giao dịch chứng khoán. Ngoài ra, Điều 26 Thông tư số 119/220/TT-BTC
quy định trước khi thực hiện giao dịch chứng khoán, nhà đầu tư phải có đầy đủ
tài sản ký quỹ bù trừ theo yêu cầu của thành viên bù trừ. Quy định này trên cơ
sở tiếp thu ý kiến của thành viên thị trường, theo đó tạo cơ chế linh hoạt cho
thành viên bù trừ trong áp dụng mức ký quỹ đối với từng loại giao dihj, từng đối
tượng khách hàng.
Mô hình thanh toán, bù trừ CCP:
- Về việc NHLK làm thành viên bù trừ: Bộ Tài chính tiếp
thu ý kiến VBF và sẽ tiếp tục kiến nghị Ngân hàng Nhà nước hoàn thiện khung
pháp lý về việc ngân hàng thương mại, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện
chức năng bù trừ và thanh toán giao dịch chứng khoán trên thị trường cơ sở, đảm
bảo hoạt động ổn định của TTCK.
- Về việc chuyển/nhận tiền và chứng khoán khi NHLK không
làm thành viên bù trừ: Khoản 2 Điều 31 Thông tư số 119/2020/TT-BTC quy định:
“ngân hàng lưu ký không phải là thành viên bù trừ có thể quản lý tài sản ký quỹ
bù trừ là tiền, chứng khoán của khách hàng trên tài khoản lưu ký của khách hàng
tại ngân hàng lưu ký nhưng việc bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán của
khách hàng của ngân hàng lưu ký phải được thực hiện trên tài khoản ký quỹ bù trừ
mở tại thành viên bù trừ”. Tài sản ký quỹ bù trừ hay tài sản lưu ký đều thuộc sở
hữu của nhà đầu tư và được Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam
theo dõi chi tiết đến từng nhà đầu tư. Việc lưu giữ tài sản của nhà đầu tư trên
tài khoản ký quỹ tại TVBT hoặc chuyển về tài khoản lưu ký lại NHLK do nhà đầu
tư quyết định. Trong trường hợp nhà đầu tư có nhu cầu chuyển thì thực hiện theo
thoả thuẫn giữa nhà đầu tư, TVBT và ngân hàng lưu ký.
Thời hạn triển khai/chuyển tiếp: Tại khoản 14 Điều 310
Nghị định 155/2020/NĐ-CP về điều khoản chuyển tiếp đã quy định: “Các thành viên
lưu ký của Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt nam được phép tham
gia hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng khoán như thành viên bù trừ trực
tiếp theo quy định tại Nghị định này trong thời han 12 tháng kể từ ngày chính
thức triển khai cơ chế đối tác bù trừ trung tâm. Sau thời hạn này, chỉ thành
viên bù trừ mới được tham gia hoạt động bù trừ, thanh toán giao dịch chứng
khoán”. Ngoài ra, UBCKNN, VSD sẽ phối hợp với các thành viên thị trường chuẩn bị
kỹ lưỡng và thực hiện kiểm thử hệ thống trước khi chính thức triển khai cơ chế
CCP đối với thị trường chứng khoán cơ sở.
(6) Về quỹ ETF:
Điều 34 Thông tư số 96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ
trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn công bố thông tin trên thị trường chứng khoán đã
miễn trừ nghĩa vụ công bố thông tin của quỹ ETF trong giao dịch tái cơ cấu danh
muc của chỉ số tham chiếu.
Về nghĩa vụ công bố thông tin của người có liên quan của
người nội bộ quỹ ETF: Khi thực hiện giao dịch hoán đổi CCQ ETF, người nội bộ,
người có liên quan của người nội bộ được xem như một nhà đầu tư vào CCQ đại
chúng thông thường và thực hiện nghĩa vụ công bố thông tin theo Điều 33 Thông
tư số 96/2020/TT-BTC.
(7) Người có liên quan
Khoản 46 Điều 4 Luật Chứng khoán 2019 quy định về khái niệm
người có liên quan, trong đó có “tổ chức, cá nhân mà trong mối quan hệ với tổ
chức, cá nhân khác trực tiếp, gián tiếp kiểm soát hoặc bị kiểm soát bởi tổ chức,
cá nhân đó hoặc cùng với tổ chức, cá nhân đó chịu chung một sự kiểm soát”. Quy
định này đã được triển khai từ Luật chứng khoán 2006, nhằm hạn chế các giao dịch
thao túng, nội gián trên TTCK.
(8) Trái phiếu
- Triển khai Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, Bộ
Tài chính đã trình Chính phủ ban hành Nghị định số 153/2020/NĐ-CP ngày
31/12/2020 của Chính phủ về chào bán, giao dịch TPDN riêng lẻ tại thị trường
trong nước và chào bán TPDN ra thị trưởng quốc tế (Nghị định 153). Căn cứ điều
kiện chào bán TPDN riêng lẻ tại Luật Chứng khoán và Luật Doanh nghiệp, Nghị định
số 153 đã quy định về hồ sơ, quy trình, thủ tục phát hành TPDN và thống nhất quản
lý hoạt động phát hành TPDN riêng lẻ của cả doanh nghiệp đại chúng và doanh
nghiệp không đại chúng.
- Một số quy định về chế độ công bố thông tin và báo cáo
tại Nghị định số 153 đã được hoàn thiện để khắc phục những tồn tại, hạn chế
trong triển khai thực hiện thời gian qua như (i) rút ngắn thời gian công bố
thông tin trước đợt phát hành từ tối thiểu 10 ngày làm việc xuống tối thiểu 01
ngày làm việc theo kiến nghị của các doanh nghiệp và quy định tại Luật Doanh
nghiệp; (ii) giao Bộ Tài chính hướng dẫn cụ thể về thời hạn, nội dung, biểu mẫu
công bố thông tin, báo cáo của doanh nghiệp phát hành, tổ chức tư vấn, tổ chức
đấu thầu, bảo lãnh, đại lý phát hành, tổ chức đăng ký, lưu ký trái phiếu và Sở
GDCK; (iii) làm rõ về nội dung và cách thức công bố thông tin của Sở GDCK Hà Nội
trên chuyên trang thông tin về TPDN. Bên cạnh đó, để tăng thanh khoản của trái
phiếu và hỗ trợ hoạt động của thị trường sơ cấp TPDN, Nghị định số 153 quy định
căn cứ tình hình thị trường Bộ Tài chính sẽ thiết lập thị trường giao dịch TPDN
cho các nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp tại SGDCK và nâng cấp Chuyên trang
thông tin về TPDN riêng lẻ.
- Về đề xuất liên quan đến đầu tư vào trái phiếu đối với
quỹ mở:
+ Hạn
mức đầu tư vào một tổ chức phát hành đối với quỹ mở cụ thể như sau: “Không được
đầu tư vào chung khoản của một tổ chức phát hành quá 10 % tổng giá trị chứng
khoán đang lưu hành của tổ chức đó, trữ trái phiếu Chính phủ” Chứng khoán của một
tổ chức phát hành bao gồm cả trái phiếu và cổ phiếu. Quy định này đã được quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 110 Luật Chứng khoản 2019, phù hợp với thông lệ quốc tế
(UCITs) nhằm đa dạng cơ cấu đầu tư của quỹ, giảm thiểu rủi ro tập trung đối với
các khoản đầu tư của quỹ, bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư.
+ Về
việc quỹ mở chi được đầu tư vào trái phiếu phát hành ra công chúng được niêm yết
nhằm đảm bảo tính thanh khoản của quỹ , do đặc tính của quỹ mở là chứng chỉ quỹ
phải được mua lại hoặc chuyển đổi theo yêu cầu của nhà đầu tư. Việc cho phép quỹ
mở đầu tư vào trái phiếu phát hành riêng lẻ (trái phiếu này không được niêm yết
trên thị trường và tính thanh khoản thấp) sẽ dẫn đến rủi ro công ty quản lý quỹ
không thể bán trái phiếu để đáp ứng yêu cầu mua lại của nhà đầu tư khi cần thiết.
Hiện nay, Thông tư số 98/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính
hướng dẫn hoạt động và quản lý quỹ đầu tư chứng khoán vẫn cho phép quỹ mở đầu
tư vào một số loại trái phiếu chưa niêm yết tuy nhiên có bảo lãnh phát hành hoặc
cam kết mua lại để đảm bảo tính thanh khoản của quỹ.
(9) Nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp:
Khái niệm nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp đã được
quy định tại Điều 11 Luật Chứng khoán 2019, bao gồm cả các tổ chức, cá nhân có
năng lực tài chính hoặc có trình độ chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng
khoán.
(10) Tài khoản tổng (omnibus account):
Theo khoản 2 Điều 145 Nghị định số
155/2020/NĐ-CP đã cho phép:
- Công ty chứng khoán nước ngoài đươc
cấp 02 mã số giao dịch chứng khoán (MSGD): 01 MSGD cho tài khoản tự doanh và 01
MSGD cho tài khoản môi giới chứng khoán của công ty;
- Quỹ đầu tư nước ngoài, tổ chức nước
ngoài được quản lý bởi nhiều công ty quản lý quỹ nước ngoài được cấp nhiều
MSGD, trong đó mỗi danh mục đầu tư được quản lý bởi một công ty quản lý quỹ nước
ngoài thì được cấp 01 MSGD; danh mục đầu tư do quỹ đầu tư, tổ chức nước ngoài tự
quản lý được cấp 01 MSGD riêng;
- Tổ chức đầu tư thuộc chính phủ nước
ngoài hoặc tổ chức đầu tư, tài chính thuộc tổ chức tài chính quốc tế mà Việt
Nam là thành viên được cấp nhiều MSGD, trong đó mỗi danh mục đầu tư lưu ký tại
một ngân hàng lưu ký được cấp 01 MSGD;
- Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng
khoán được cấp 01 MSGD để quản lý danh mục đầu tư cho nhà đầu tư nước ngoài, tổ
chức kinh tế có có trên 50% vốn đầu tư nước ngoài. Công ty quản lý quỹ đầu tư
chứng khoản trở thành tổ chức kinh tế có trên 50% vốn đầu tư nước ngoài được cấp
thêm 01 MSGD cho hoạt động đầu tư của chính công ty quản lý quỹ;
- Chi nhánh công ty quản lý quỹ nước
ngoài tại Việt Nam được cấp 02 MSGD, trong đó 01 MSGD cấp cho chi nhánh , 01
MSGD để quản lý danh mục đầu tư cho NĐTNN.
(11) Đại lý ký danh (Omnibus agent):
Thông
tư số 98/2020/TT-BTC đã quy định đại lý ký danh thực hiện thanh toán trên cơ sở
giá trị chênh lệch giữa lệnh mua và lệnh bán theo quy định tại điểm b khoản 1
Điều 31, điểm d khoản 3 Điều 77 Thông tư 98/2020/TT-BTC.
(12) Tổ chức lưu ký uỷ thác:
Hiện
nay, Thông tư số 119/2020/TT-BTC không có quy định về “tổ chức lưu kỷ ủy thác
”.
Đối
với hoạt động đầu tư của NĐTNN: NĐTNN được trực tiếp đầu tư trên TTCK Việt Nam
(mã số giao dịch chứng khoán đứng tên nhà đầu tư) hoặc thông qua ủy thác đầu tư
(mã số giao dịch đứng tên tổ chức nhận ủy thác), Điều 145 Nghị định số
155/2020/NĐ-CP đã quy định một số trường hợp các tổ chức nước ngoài được mở nhiều
mã số giao dịch chứng khoán.
Về
nghĩa vụ của NĐTNN: NĐTNN có trách nhiệm tuân thủ nghĩa vụ báo cáo, công bố
thông tin (được quy định tại Thông tư số 96/2020/TT-BTC của Bộ Tài chính hướng
dẫn về công bố thông tin trên TTCK); cũng như tuân thủ quy định về tỷ lệ sở hữu
nước ngoài trên thị trường chứng khoán (được quy định tại Nghị định số 155/2020/NĐ-CP).
(13) Giao dịch trong ngày và giao dịch chứng khoán chờ về:
Thông
tư số 120/2020/TT-BTC ngày 31/12/2020 của Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn về
giao dịch cổ phiếu niêm yết, đăng ký giao dịch và chứng chỉ quỹ, trái phiếu
doanh nghiệp, chứng quyền có bảo đảm niêm yết trên hệ thống giao dịch chứng
khoán đã quy định nguyên tắc cho phép triển khai giao dịch trong ngày, giao dịch
chờ về. Việc triển khai cụ thể các giao dịch này sẽ được Bộ Tài chính cân nhắc
cụ thể khi hoàn thiện hệ thống của SGDCK, VSD; đồng thời đảm bảo tính an toàn của
thị trường.
(14) Sử dụng thông tin nội bộ
trong quá trình thẩm định công ty:
Luật
chứng khoán không có quy định cấm công ty cung cấp thông tin để thẩm định công
ty.
Ngoài
ra, khoản 44 Điều 4 Luật chứng khoán 2019 đã quy định: Thông tin nội bộ là
thông tin liên quan đến công ty đại chúng, tổ chức niêm yết, tổ chức đăng ký
giao dịch, quỹ đại chúng, công ty đầu tư chứng khoán đại chúng chưa được công bố
mà nếu được công bố có thể ảnh hưởng lớn đến giá chứng khoán của tổ chức này.
Như vậy, những thông tin đã được công bố không còn là thông tin nội bộ.
(15) Đơn vị tư vấn phát hành chứng khoán:
Chức
năng tư vấn phát hành chứng khoán là hoạt động của công ty chứng khoán đã được
quy định tại Luật Chứng khoán 2019.
(16) Điều kiện niêm yết trên Sở giao dịch chứng khoán:
Tại
điểm d khoản 1 Điều 34 Luật Chứng khoán 2019 đã quy định: Sau 02 năm kể từ ngày
giao dịch đầu tiên trên hệ thống Upcom, công ty đại chúng (công ty có vốn điều
lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên và có tối thiểu là 10% số cổ phiêu có quyền biểu
quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn năm giữ) có quyền nộp
hồ sơ đăng ký niêm yết chứng khoán.
Theo
điểm b khoản 1 Điều 109 Nghị định số 155/2020/NĐ-CP quy định một trong các điều
kiện niêm yết là: "Công ty đã giao dịch trên Upcom tối thiểu 02 năm, trừ
trường hợp tổ chức đăng ký niêm yết đã chào bán cổ phiếu ra công ching, doanh
nghiệp có phần hóa". Như vậy, điều kiện về thời hạn đăng ký giao dịch trên
Upcom được miễn trừ cho các công ty đã chào bán cổ phiếu ra công chúng hoặc
doanh nghiệp cổ phần hóa.
Công ty đại chúng có vốn điều
lệ đã góp từ 30 tỷ đồng trở lên và có tối thiểu 10% số cổ phiếu có quyền biểu
quyết do ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn nắm giữ (không bao gồm
trường hợp công ty đã thực hiện chào bán thành công cổ phiếu lần đầu ra công
chúng thông qua đăng ký với UBCKNN) phải đăng ký giao dịch cổ phiếu trên hệ thống
giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết; sau 02 năm kể từ ngày giao dịch đầu
tiên trên hệ thống giao dịch cho chứng khoán chưa niêm yết, công ty đại chúng
có quyền nộp hồ sơ đăng ký niêm yết khi đáp ứng các điều kiện niêm yết chứng
khoán.
(17) Niêm yết doanh nghiệp FDI:
Các
quy định về điều kiện niêm yết tại Nghị định số 155/2020/NĐ-CP áp dụng chung đối
với các công ty cổ phần được thành lập và hoạt động tại Việt Nam, không quy định
điều kiện niêm yết riêng đối với Doanh nghiệp FDI.